• dau-title
  • Lý luận - Phê bình
  • cuoi-title

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ

Thứ ba - 21/01/2020 10:22



Ngẫm đi ngẫm lại, thấy cha ông ngày xưa nói thật đúng rằng, về tâm tính, con người dường như trẻ nít lại. Hình như qua bao bể dâu tang điền, chuyến tàu Sinh, Lão, Bệnh, Tử đang chậm dần đều để cho hành khách có thời gian suy ngẫm mà bước xuống sân ga vĩnh cửu của vòng quay ba vạn sáu ngàn ngày ngắn ngủi. 


Thửa còn nhỏ, tôi được những “Tấm Cám”, “Cây khế” và những câu ca dao như dòng sữa thiêng liêng nuôi lớn linh hồn. Rồi biền biệt vào Nam kiếm sống, khi mẹ bệnh nặng, tôi mới được gần bà. Thật thú vị được nghe Mẹ kể những câu chuyện của thời con gái xa lắc lơ trong ký ức. Vậy mà tôi tin. Tin hơn thời còn nằm khoanh tròn như con mèo ốm trong lòng Mẹ. 


Nhà ngoại có bốn người con gái. Mẹ tôi lấy tên của ông ngoại là Đào; dì kế là Lựu nhưng người dì đẹp nhất, thăng trầm nhất, có cá tính kỳ lạ nhất là dì Trúc.  


Mẹ kể, gần được đầy năm thì dì khóc ngặt khóc nghẽo. Bé gái ấy không uống sữa. Khóc ngày này qua ngày khác. Dùng mọi phương cách đều bất lực. Ông ngoại vốn là thầy thuốc, đã từng kinh lịch Bắc - Nam mà cũng đành chịu.


Các thầy cúng đã phán ngày ra đi của bé. Hôm ấy, người ta mài dao, người ta dẫn bà ngoại sơ tán, người ta đốt cả một rừng hương nhang để làm cái việc giết người  đuổi vong.


Đúng ngọ khai đao với linh hồn bé nhỏ thì trước đó một chút, có một nhà Sư mặc áo nâu sồng từ bên kia sông chèo xuồng nhỏ sang. Sư điềm tĩnh bước vào cái gia đình đầy âm khí ghê rợn đó. Mọi người đảnh lễ cung kính. Sư lại gần bé gái đang thoi thóp và khóc nấc từng đợt.


Không hiểu ông làm gì mà đứa bé im bặt, thiêm thiếp trong tay ông. Mọi người dìu bà ngoại về. Thật hạnh phúc mẹ con đoàn tụ. Bú căng bụng. Bé ngủ. 


Và sau đó cái tên Hòe khai sinh của bé đã được thay đổi. Dì mình mang tên ông Sư ấy. Đó là Dì Trúc kính yêu của mình. 


Sau bao nhiêu biến đổi của dòng đời, dì làm đủ nghề, lấy chồng làm quan lớn, con cái thành đạt.. Dì  bỗng xin lên thiền viện Trúc Lâm hơn chục năm. Và giờ đây gì là Sư cai quản một ngôi chùa lớn... 


Mẹ còn kể rất nhiều chuyện nữa. Mẹ tin và tôi cũng rất tin vào những thế giới bên kia chi phối con người hiện hữu bên này... 


Khi trẻ con người tin vào bản sự của cá nhân mình. Để có danh làm ông này bà nọ; để có chức quyền chân chính, người ta thường lấy tiêu chí trình độ chuyên môn và trình độ học vấn, văn hóa làm thước đo.


Bụng đầy kinh luân trong thế giới hôm nay phải là khoa học. Chỉ có khoa học mới làm nên một tiến sỹ ,một giáo sư, một trí thức....


Hiển nhiên, thế giới tâm linh và những câu chuyện kể trên được gọi là Mê Tín, là do trình độ thấp kém về khoa học mà người ta mới tin vào nhảm nhí. Người ta tin khoa học chưa bước tới đó chứ không có gì là khoa học không lý giải được! 


Nhưng, càng gần cái thời kỳ cuối của thời Mạt Pháp, thời Tận Thế mà Đức Phật, Đức Chúa nói thì những ai có trí tuệ bắt đầu nhìn thấy những mặt trái của khoa học. 


Các hiện tượng tâm linh ngày xưa ấy đã xuất hiện dày đặc và làm cho các nhà khoa học hoang mang. Họ đành phải suy nghĩ một cách nghiêm túc về xác tín của Newton của Eisenstein là có Thượng Đế, có những thế giới khác đang chi phối thế giới nhỏ bé như hạt bụi là Trái Đất và Hệ Ngân Hà này... 


Nếu ai nghiên cứu và chứng thực nhiều hiện tượng "hồn nhập" "chiếm xác" thông qua trải nghiệm bản thân hoặc được kể lại và lý giải theo quan điểm của Phật Gia và Đạo Gia thì điều này không có gì lạ!


Truyện cổ tích Việt Nam có một câu chuyện khá độc đáo. Nó đã cố định làm một thành ngữ với cách sử dụng chứa nhiều sắc thái ý nghĩa hơn. Câu chuyện "chiếm xác, hồn nhập" của hồn ông Trương Ba đầu thai vào xác thân của kẻ đồ tể mổ heo chính là nguồn gốc xuất xứ của thành ngữ: "Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt".


Theo Vũ Nguyên Hanh, trong sách "Sử Nam chí dị" thì chép: "Hồn phách Trương Ba, xương da hàng thịt".


Có lẽ xu hướng của thành ngữ là 4 tiếng nên chúng ta đã dần định hình lại như vậy cho gọn. Thực ra, với người xưa "hồn phách, xương da" không giản đơn như hồn và da!


Chúng ta hãy dành chút thời gian để đọc câu chuyện này trong "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" của Nguyễn Đổng Chi.


HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT 


Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cao. Nước cờ của anh chàng không mấy ai trong thiên hạ địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Trung-quốc. Buổi ấy ở Trung-quốc có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền xách khăn gói sang Nam tìm đến tận nhà tỉ thí. Hai người đọ tài nhau mấy ván liền không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo:


- Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng đừng có hòng gỡ nổi.


Bấy giờ Đế Thích là thần cờ đang ngồi trên thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Phút chốc bên Kỵ Như chuyển bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần, chàng chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: 


- Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi. 


Đế Thích cười bảo: 


- Ta nghe nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết. 


Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành. Vậy ta cho một nén hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống”. Nói đoạn, cưỡi mây bay về trời.


Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cỗ mời thần Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa. Thấy có nén nhang dắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương bèn xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên:


- Trương Ba đâu?


Vợ Trương Ba sụt sùi: 


- Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi!


- Chết nỗi, sao lúc mới tắt nghỉ không gọi ta xuống liền, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa.


Suy nghĩ một chốc, Đế Thích lại hỏi thêm:


- Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?


Vợ Trương Ba đáp:


- Có một người hàng thịt mới chết tối hôm qua. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người hàng thịt rồi bảo nhỏ với chị: - "Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống lại". Nói xong thần hóa phép rồi trở về Trời.


Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vất tất cả mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó thì vợ con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng. Nhưng không những họ bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng họ cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau cuối cùng biến thành một cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.


Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận là chồng mình. Quan hỏi: - "Chồng chị ngày thường làm nghề gì?". Đáp: - "Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi". Quan lại hỏi vợ người hàng thịt: - "Chồng chị ngày thường làm nghề gì?". Đáp: - "Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn".


Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỷ thí với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.


Vì thế mới có câu "Hồn Trương Ba, da hàng thịt".


KHẢO DỊ


Một dị bản vốn gốc từ thần tích kể rằng: Trương Ba là nho sĩ người đời nhà Lý, ở làng Liên Hạ (Hải-Dương). Trương Ba ở đây không đánh cờ với Kỵ Như mà thường đánh với Trang Ứng Long vốn là bạn cờ. Trong truyện cũng có việc quan thử thách để tìm ra chân lý. Người chết sống lại cũng không mổ được lợn, nhưng lại làm được thơ phú thao thao bất tuyệt, và khi người bạn cờ Trang Ứng Long cùng đánh một ván, thì ông này nhận ra ngay đó chỉ có thể là Trương Ba.


Đoạn kết chuyện còn kể: vì thấy vợ người hàng thịt khóc lóc thảm thiết nên Trương Ba tái sinh đã bàn với vợ và khi được vợ ưng thuận, anh ta lấy luôn người đàn bà kia làm vợ lẽ.


Trung-quốc cũng có truyện "Xác công tử, hồn ông sư":


Một ông sư ở chùa Vạn Phúc tu hành đắc đạo, tuổi hơn 80 mới chết. Hồn sư đi vơ vẩn gặp một công tử con nhà quan đi săn cùng 10 người hầu, bất thình lình ngã ngựa chết. Hồn sư nhập vào xác mới làm cho xác sống lại. Bọn người hầu tưởng chủ tỉnh lại, chạy tới chăm sóc, nhưng sư ta trừng mắt hỏi: - "Làm sao ta lại ở đây?". Người ta đưa về nhà công tử. Ai đến thăm cũng niệm: - "Nam mô a di đà Phật, làm sao ta lại đến đây?". Người ta đưa cơm cho thì ăn, còn thịt thì không đụng đến. Đêm ngủ một mình, hễ thấy bóng đàn bà đến gần là chạy. Cả nhà ngạc nhiên tưởng công tử hóa điên.


Được ba ngày sau, sư ta đi bách bộ ra ngoài hỏi thăm chùa Vạn-Phúc, tìm đến, nói mình vốn là hòa thượng ở chùa này. Các sư tiểu trong chùa cho là nói đùa, nhưng sư ta kể lại mọi việc đều phù hợp. Cuối cùng ở lại chùa tu hành như cũ.


Gần đây, người ta đã có những khảo cứu và biết cụ thể hơn. 


Bối cảnh của giai thoại được cho là ở Thôn Liêu Hạ, Xã Tân Lập, huyện Yên Mỹ, Tỉnh Hưng Yên. Giai thoại này được Cụ Trần Quốc Chính là một nhà thư pháp và học giả uyên thâm biên soạn lại thành một cuốn sách có tên: "Dấu ấn làng Đình Sơn", xuất bản 2011. Năm 2012 Đài Truyền hình Tỉnh Hưng Yên đã tổ chức làm phóng sự để nghiên cứu khu di tích này.


Như vậy, nếu chúng ta tin những chuyện tâm linh, chuyện vong hồn nhập xác có thật thì đây không phải là mê tín. Bởi vì nó huyền hoặc và không xảy ra phổ biến cũng không dùng những kiến thức hàng ngày để giải thích được nên ta cho nó là cổ tích và dùng cả một chuyên ngành nghiên cứu nó  là folklore (phôn-clo) để tìm các ý nghĩa ẩn dụ của các hình tượng huyền hoặc. 


Câu chuyện trên cho ta thấy có thế giới của người trần và thế giới của Thần. Ta gọi là "trần thế" và "cõi trên, cõi trời". Rõ ràng vị Tiên Đế Thích có khả năng đánh cờ siêu phàm. Người trần dù nổi tiếng đến mức nhất nhì như Trương Ba hoặc  Kỵ Như từ Trung Quốc sang cũng không thể là địch thủ của ông Tiên Cờ này được. 


Giữa Thần và người là có sự cách biệt về tầng thứ. Cụ thể là không gian, thời gian họ khác nhau cho nên sinh mệnh Thần và Người là thuộc cảnh giới khác. Do đó khả năng của Thần luôn hơn hẳn người. 


Thế nhưng, tiêu chuẩn giá trị của vũ trụ có thể đậm nhạt khác nhau nhưng cái hằng số chung là Đạo Đức. Vì mến Trương Ba là người biết kính ngưỡng Thần Linh nên Đế Thích sẵn sàng cho thêm chút trí tuệ tài năng của mình... 


Câu chuyện dân gian này đã chứng minh một điều mà khoa học hiện đại hôm nay đang hé mở. Con người là một sinh mệnh còn bí ẩn và phong phú hơn vũ trụ vĩ mô mà hàng ngày chúng ta chiêm nghiệm với bầu trời bằng các phương tiện hiện đại nhất. 


Thuyết Tiến hóa càng ngày càng bị khoa học phản bác. 


Người nghiêm túc và có khoa học càng ngày càng gần hơn với quan điểm xưa kia: Con người do Thần tạo ra. Thân xác thịt chỉ là 90% nước và những nguyên tố hóa học của bảng hệ thống tuần hoàn. Con người nếu không có linh hồn, không có Nguyên Thần, Nguyên Anh, Anh Hài, không có ba hồn bảy vía hoặc 3 hồn chín phách... thì chỉ là một tảng thịt, không hơn. 


Chỉ có con người là được câu thông với Thần Thánh. Cho nên chỉ có con người mới được quyền tu luyện để phản bổn quy chân trở về ngôi nhà của mình vốn ở tầng trời của Đế Thích hoặc những tầng trời cao hơn, cao hơn nữa... 


Khi nói tới linh hồn và khả năng siêu thường của các sinh mệnh cao tầng ta sẽ hiểu tại sao người ta có thể lấy hồn của người này để đưa vào xác của một người khác. 


Thông thường, có những người đã chết nhưng sống lại trong chính thân thể mình. Ta gọi là trạng thái phục sinh, cận tử. Nhưng lấy râu ông nọ chắp cằm bà kia như câu chuyện trên thì quá lạ. Lạ nên ta gọi là bịa, là cổ tích! 

Trường phái Đạo Gia tu xuất được rất nhiều công năng. Trường hợp "nguyên thần ly thể" thường được Sư phụ của họ cảnh báo rất nghiêm khắc. 


Khi nhập định, linh hồn có thể xuất ra. Họ đến các không gian khác nghĩa là đến thời gian khác, cảnh giới khác. Có khi lên trên ấy chỉ thoáng chốc nhưng về lại thì xác thịt đã bị hủy hoại rồi.  Chuyện Lưu Nguyễn của Trung Quốc; Từ Thức của Việt Nam đến cõi Tiên, khi trở về thì trần thế đã mấy trăm năm trôi qua đã để lại không ít ngậm ngùi.

 

Chắc là người của thời đại xưa nên tôi tin Tản Đà có cái nhìn về cuộc chơi xứ Tiên của Lưu Nguyễn là có thật. Vì thế bài thơ Tổng biệt mới ngậm ngùi một cách thanh tao khôn tả đến thế:


Lá đào rơi rắc lối thiên thai 

Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi 

Nửa năm tiên cảnh 

Một bước trần ai 

Ước cũ, duyên thừa có thế thôi! 

Đá mòn, rêu nhạt. 

Nước chảy, hoa trôi 

Cái hạc bay lên vút tận trời 

Trời đất từ nay xa cách mãi 

Cửa động 

Đầu non 

Đừơng lối cũ 

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi ....


Như vậy, hồn Trương Ba nhập xác được với điều kiện bắt buộc là có ngay xác người hàng thịt vừa mới chết. Nếu coi xác chỉ là phương tiện để Hồn nương náu và sống kiếp người thì với một vị thần tiên, việc cho Hồn ấy ở xác nào cũng như nhau thôi! 


Những người theo trường phái Đạo Gia thường nói về Bát Tiên. Chắc ai cũng biết trong "Bát Tiên truyền kỳ", vị tiên đứng đầu là Lý Thiết Quải, có thân hình của một ông lão già nua xấu xí với một bên chân khập khiễng. 

Đã là tiên, vì sao lại có vẻ ngoài khổ sở như vậy? Kể rằng, ông tên thật là Lý Huyền, vốn là một đạo sĩ khôi ngô tuấn tú. Khi chưa hoàn toàn viên mãn, ông đã có thể "nguyên thần ly thể", ngao du tận chốn sơn cùng thủy tận.


Có lần, Lý Huyền muốn cùng Thái Thượng Lão Quân đến Hóa Sơn, trước khi đi ông căn dặn đệ tử phải canh giữ xác ông trong 7 ngày, nếu sau 7 ngày mà nguyên thần không về thì hãy thiêu xác. Đến trưa ngày thứ 7, mặc dù nguyên thần của sư phụ chưa về, nhưng người đệ tử  đã mang xác đi thiêu vì anh ta phải về nhà chịu tang.


Đến lúc Lý Huyền trở về không tìm thấy xác, ông đành phải bay đi tìm một thân xác mới, thấy trong rừng có người ăn mày vừa chết vì đói, ông bèn nhập vào và hoàn dương. Bởi người ăn mày xấu xí, lại thêm cái chân khập khiễng phải chống gậy, nên từ đó Lý Huyền mới có tên là “Thiết Quải”, nghĩa là ‘gậy sắt’ (dẫn theo Hồng Liên trong "Cảm ngộ Tây Du" (Kỳ 6), Đại Kỷ Nguyên).

 

Vì vậy, Trương Ba sống lại trong thân xác người khác không gây một bất ngờ lớn nào với vợ anh ta; với quan xử kiện; với bạn cờ của mình. 


Có lẽ người xưa bằng trực giác thiên định, hoặc sống trong môi trường văn hóa Thần truyền họ không bị khoa học thực chứng quấy rầy nên đã thấy mọi chuyện rồi kết thúc có hậu như mọi chuyện cổ tích! 


Khi khoa học thống trị thế giới này và đưa nhân loại vào sự tiện ích, hưởng thụ thì tất nhiên Khoa Học là tất cả, là định giá mọi giá trị của nhân loại. Người ta chuộng vật chất, chuộng tiện nghi. Người ta cho rằng đây mới chính là văn minh của con người…

 

Hiển nhiên, khi rời bỏ thế giới của Thần luôn duy trì và khuyến dương Đạo Đức thì bây giờ hậu quả khó lường mà nhân loại phải đối đầu chính là tư duy con người bị biến dị. Ai đề cao Đạo Đức xưa là không thực tế. Nó bị gắn cho hai tiếng "lạc hậu".


Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch có phong cách. Ông vạm vỡ không chỉ là để lại cho văn học Việt Nam một khối lượng kịch bản nhiều, trong một thời gian rất ngắn. Cái kỳ lạ là ông đang sống trong một dòng văn học lấy cảm hứng sử thi, lấy nhiệm vụ cách mạng làm mục đích mà lại chuyển làn và thích ứng với dòng văn học hướng về nhân sinh, hướng về cuộc bể dâu của kiếp người. 


Tác phẩm để đời được trình diễn nhiều nơi trên thế giới của ông lại là lấy cảm hứng trực tiếp từ câu chuyện cổ tích trên. 


Phải chăng đây cũng là con đường của William Shakespeare đã đi, khi nhà soạn kịch vĩ đại người Anh này dựa vào các giai thoại, các câu chuyện dân gian để sáng tạo. Những tác phẩm Hamlet, Vua Lear, Othello, Macbeth,... ra đời trên tinh thần đó!


Lưu Quang Vũ cũng tận dụng một kinh nghiệm nữa của Nam Cao khi ông sử dụng thời gian nghệ thuật hạn chế. 


Câu chuyện Chí Phèo được đặc tả khi khởi đầu bằng một buổi trưa Chí say rượu chửi mọi thứ. Buổi trưa ngày thứ 7, Chí đến nhà chửi Bá Kiến và cái chết của hai người! 


Câu chuyện trong vở kịch của Lưu Quang Vũ được khởi đầu khi câu chuyện cổ tích đã đi về nơi có hậu và kết thúc. 


Các nhân vật trong gia đình, lan đến ngoài xã hội; từ tầng thứ lê dân đến lũ sâu mọt ở hạ giới; từ những ông Tiên cô đơn đến những quan coi việc an bài sống chết ở Thiên Đình... 


Tất cả tạo nên một liên tưởng về xã hội hiện đại. Có huyền hoặc, có cõi người và cõi Trời nhưng điểm nhìn của họ Lưu không chất phác chân thật như người xưa nữa rồi! 


Thực ra, rất dễ nhận diện đó chỉ là một cõi người ta với “hỉ, nộ, ái, ố” với sự rắc rối nhiêu khê của nhân loại sống vùi trong “tham, sân, si” và các dục vọng của thời đại khoa học với những biến dị làm tổn thương nghiêm trọng Đạo Đức. 


Những Pháp môn cao tầng của Phật Gia và Đạo Gia cho ta hình dung vũ trụ có nhiều tầng, nhiều cảnh giới chứ không giản đơn có thế giới của Người và thế giới khác là Phật hoặc Ma.


Thích Ca Mâu Ni nói có 8 vạn 4 ngàn Pháp tu. Vì thế Phật nhiều như "cát sông Hằng". Thế giới có những sinh mệnh được gọi là Thần, là Phật hẳn nhiên không thể xấu hơn chúng ta về Đạo Đức. Tất nhiên, những Thần Phật càng cao tầng hơn thì tiêu chuẩn Đạo Đức của họ phải cao hơn. 


Hãy vào Thiên Đình và nghe hai vị quan nói chuyện:


Nam Tào: (Thở dài thườn thượt) Chán lắm, chán lắm ông Bắc Đẩu ạ! Cõi giời quanh quẩn vẫn chỉ có thế. Đào tiên ăn mãi cũng chán, vũ nhạc Nghê Thường xem mãi cũng nhạt trò… Tù túng, gò bó quá, lắm lúc nghĩ, thà cứ xuống mẹ nó hạ giới làm cái chân anh thổ địa có lẽ lại hơn!

 

Bắc Đẩu: Đừng có nói quấy! Chẳng hơn đâu! Mình đã quen cảnh an nhàn, oai vệ rồi, sa xuống hạ giới lầm lụi, đầu tro mặt muội, mình chịu sao nổi? Ở đây, chẳng gì cũng là giời.


Có vẻ như ta thấy những công chức "sáng vác ô đi tối vác về" ở một xã hội hiện tại mà người ta luôn phấn đấu bằng mọi cách làm "người nhà nước" để được an nhàn yên phận; không có chỗ cho sự đột phá, mở đường sáng tạo!

 

Có lẽ người nhà Trời không có cái ngán ngẩm như Nam Tào: “Người dưới hạ giới, lúc nào khổ quá, buồn quá họ còn biết kêu giời chứ mình là giời rồi, thì mình còn biết kêu ai?”


Cách nhận thức này cũng là suy nghĩ của con người. Thực ra, sinh mệnh con người là luân hồi trong quy luật "nghiệp lực luân báo". Ai ra đi ngày nào là đã được an bài từ khi giáng sinh. Không phải:


“(...) có những đứa ta bắt đi sớm ngày nào, hạ giới họ mừng ngày ấy, có những người dở việc phải để cho họ làm nốt, lại có những người cũng tốt đấy, nhưng việc họ xong rồi, lộc giời họ hưởng cũng đủ rồi, chẳng còn lý do gì để họ ở lại..”


Bởi chiếu theo quy luật nhân quả thì người trần gian Mê muội làm sao thắng được mệnh trời. Họ Lưu cũng đang nhìn bằng cặp mắt mê và theo logic trần thế:


"Nam Tào: Nhưng ông ạ, đâu dưới hạ giới giờ không như trước đâu, họ cứng đầu cứng cổ, coi trời bằng vung. Làm sai là họ chửi. Không phải muốn bắt ai chết là được đâu! Đến rối trí điên đầu vì họ. Mà họ cũng gớm lắm, quỷ quyệt, ngày một nghĩ thêm đủ loại thuốc thang, nhiều người ốm thập tử nhất sinh rồi mà vẫn không bắt đi được, mệnh giời có khi phải thua họ đấy!"


Bệnh tật với thế giới con người, khoa học đã tìm ra căn nguyên của nó. Với nhà Phật, nếu có vạn thứ bệnh thì có bấy nhiêu loại nghiệp lực. Nghiệp không mơ hồ hoặc là khái niệm trừu tượng như ta nghĩ mà nó chính là vật chất, là những thể sinh mệnh. Hầu hết những bệnh nặng, thuốc thang chỉ đẩy lùi nó. Nhưng đến một lúc nào đó nó sẽ quật ngã chúng ta. 


Đây là lý do sâu xa tại sao con người tu luyện lại có thể tiêu nghiệp, có thể trị bệnh từ căn gốc.


Thế nhưng, định luật nhân quả công bình đã ẩn nấp trong những lời này của Nam Tào: 


Một ông lão đã hơn 90 tuổi, đã có cháu chắt đầy đàn, phúc lộc thọ đã hưởng đủ, ta đưa đi là lẽ phải. Thứ hai là một tên bạc ác bất nhân, lừa thầy phản bạn, vì mưu lợi mà dối trá tham tàn, nó hoành hành làm khổ thiên hạ đã lắm, cho nên dù nó đang khoẻ mạnh, ta cũng nên bắt nó đi!”


Vị Tiên có thể thích thảng nhàn nhã với những ván cờ là Đế Thích cũng rất buồn chán bởi không có đối thủ:


“Đế Thích: Đến nỗi nhiều lúc chính tôi cũng không hiểu là thực ra mình có cao cờ không? Lần cuối cùng tôi đánh cờ với kẻ khác đã cách đây mấy vạn năm rồi.”


Chuyển cảnh về Hạ Giới, ta nhận ra gia đình Trương Ba là gia đình còn giữ được rất nhiều truyền thống cổ xưa. Trương Ba sống với tư cách một người làm vườn, "nông chi điền" lương thiện. Có nghèo nhưng vui với cảnh nghèo. Vợ chồng vẫn sắt son với nhau bởi những sợi dây tình nghĩa. Họ già rồi, có cháu, có dâu rồi mà vẫn "tương kính như tân". Trương Ba luôn nhắc với vợ mình kỷ niệm của buổi đầu gặp gỡ, của những thăng trầm thửa hàn vi…


Trương Ba có thú vui rất tao nhã khiến ta nghĩ về cảnh nhưng Tiên ông mặc khách sống trong rừng thông khe suối bạn với hạc nội mây ngàn, ngắm hoa lan, nghe trăng hát cùng suối trong…


Đây không chỉ là nói về cờ mà lại là một triết lý sống với cổ nhân xưa:


"Tôi không coi cờ chỉ là giải pháp phiền qua ngày bác ạ. Tôi thích cờ bởi nó chẳng thiên vị ai, ông quan đánh với anh dân đen cũng thế thôi. Mới đầu hai bên ngang quân ngang thế nhau. Anh nào tài trí hơn thì thắng. Đánh cờ làm cho trí mình sáng, mà trí sáng thì tâm sẽ bình thản. Có gì khó bằng sự bình thản trong tâm hả bác?" 


Nhưng vết nứt của Đạo đức trong gia đình cũng như ngoài xã hội đang mở dần những đường rãnh xấu xí, những giao thông hào cách trở của nó qua nhân vật anh con trai say mê buôn bán bất chính, tính toán mọi giá trị dựa vào đồng tiền và hưởng thụ.


Sự gia tăng những căng thẳng trong mái ấm cổ kính này chính là yếu tố "hiện đại, văn minh" mà ngày nay chúng ta cổ súy. Nhưng loay hoay cũng  không có cách gì kìm hãm cổ xe Đạo đức suy thoái đang ầm ầm lao dốc. 

Lưu Quang Vũ viết vở kịch 1981. Lúc mà cái đói hoành hành, miếng ăn trở thành sự săn lùng thường trực, quyết liệt của cả một cộng đồng đông đảo bị dạ dày hành hạ. 


Nhưng đọc lại những câu, những chi tiết nói về bất hiếu của đứa con này  thì ta ngờ ngợ. Bởi, nó vẫn còn một chút nào đó về đạo đức.

 

Chỉ mới hơn 20 năm trôi qua, những nghịch tử của xã hội hiện đại đã giày xéo chữ Hiếu đến mức độ thê thảm mà người ta không nhận diện ra nữa.. 

Anh bạn tôi vốn là gia đình gia giáo. Anh cũng là một nhà giáo có chuyên môn và nổi tiếng nghiêm khắc.

 

Anh có đứa con học Đại Học 4 năm thì chơi game cả 4. Nó lêu lổng với kẻ nghiện ma túy. Nợ nhiều môn nên về chạy xe Grap. Nó dẫn gái vào nhà ngang nhiên; xưng hô "mày, tao" với cha mẹ như địch nhân.


Đã 60 tuổi, lại mổ hai lần xương sống nhưng từ cái chén ăn, cái nhà, cái sân bẩn anh đành phải làm; nước ngập nhà, bị chốt 6 cái đinh trong xương sống mà anh phải tự khiêng đồ nặng. Cậu con vẫn nhìn thản nhiên! 


Đọc những lời của con với cha ở vở kịch này để so sánh với cái "mạt" trong những cái "mạt" của thời buổi hôm nay, thấy nó cách xa. Và, không biết rồi Đạo đức sẽ dừng ở điểm nào?

 

“Anh con trai: Tôi biết rồi, thầy khỏi phải nhắc lại. ‘Phụ tử tình thâm, công cha như núi Thái Sơn’ hừ, thầy u đẻ ra tôi, chỉ cho tôi cái thân cái xác nhưng cái hồn cái vía tôi, thì là của tôi chứ, tôi muốn làm gì mặc tôi! “


Sự thay đổi chưa đến mức tha hóa của anh con cũng chưa đủ khả năng để tạo ra phản ứng domino với các thành viên khác. Bằng chứng là cháu nói:

"Cái Gái: Ông, ông ơi! Bố cháu gắt ông, bố cháu làm ông buồn phải không? Nhưng cháu yêu ông, cháu nghe lời ông. Không cần bố cháu, ông cháu mình chơi với nhau thôi ông nhỉ? Cháu vừa xách nước tưới mấy luống cà chua của ông rồi đấy!"


Việc gặp Tiên Đế Thích đã khiến cả hai có được tri âm. Vị Tiên xuống trần gặp người Đạo Đức, biết cung kính mình bởi tài năng dù ông đang đóng vai kẻ ăn mày. 


Trương Ba quả là hạnh phúc bởi ông đã tìm được niềm vui tao nhã với tri âm là Tiên cờ. Hạnh phúc ấy thật lẻ loi giữa một thời thế mà mọi người, trong đó đứa con trai ông,đang tìm những giá trị biến dị làm đạo đức. 


Vốn là nhà thơ, họ Lưu để cho Trương Ba thăng hoa thành thi sỹ:


"Tôi nói sống trong cõi trời đất này lý thú quá! Chỉ tiếc mình không còn trẻ nữa. Giá như tôi sống mươi năm nữa nhỉ? Tôi còn bao việc muốn làm, còn muốn khu vườn này đầy ắp những cây quả thơm ngon. (Sau  một lát) Vừa mới nắng to thế mà chiều đã tắt dần trên rặng tre. Hôm nay sao gió lộng khắp vườn? Bầu trời như cao và rộng rãi... Bà ngồi xuống đây với tôi một lát, tôi thấy trong người làm sao ấy! (Bà vợ ngồi xuống  cạnh chồng, Trương Ba nhìn phía khu vườn) Rặng mồng tơi lá lên xanh tốt làm sao! Những quả cam vàng như cái đèn lồng bà nhỉ?"


Thế mà, Trương Ba đột ngột chết. Nó có nguyên nhân từ cái ẩu, cái vô trách nhiệm của hai quan nhà Trời mê ăn nhậu. 


So với sự xuống dốc của những vị quan tha hóa hôm nay thì quan xưa chỉ tắc trách bởi cái bàn ăn.


Quan nay thì có ý thức và tính toán mưu mô, ăn "không từ bất cứ thứ gì"!

Đọc Lưu Quang Vũ lấy khoảng cách của 2 thập niên để nhìn biểu đồ đổ đốn của Đạo Đức mà rùng mình! 


Cái chết của Trương Ba chỉ là một "sơ sẩy kỹ thuật". Nó dễ gợi đến cái chết Chí Phèo chỉ là do tâm tật đố nổi con ghen vô lý của bà cô không chồng với cháu gái mình là Thị Nở sắp được hạnh phúc gia đình! 


Chỉ sơ sẩy mà mang tội sát sinh. Cái ác hôm nay nó có chủ đích không như cái thời của họ Lưu viết kịch.


Giải pháp để sửa sai của của Thần là lấy hồn Trương Ba làm sống lại xác thân ông hàng thịt. 


Điều này câu chuyện dân gian đã kể có hậu. Vâng! Mọi chuyện rất êm thấm. 


Với những dẫn chứng phần sau bài viết này, tôi cũng thấy hiện tượng tâm linh này đã và đang xảy ra. Dù khoa học thực chứng lúng túng thì đây là điều khó ai phủ nhận nó. 


Thế nhưng, cái lạ là, họ Lưu đã sáng tạo ra phần bi kịch rắc rối phía sau.


Đó là Hồn và Xác mâu thuẫn đến mức xung khắc, phải giải quyết bằng giải pháp một mất một còn. Nói đúng hơn, hồn thanh cao của Trương Ba nếu không muốn sống trong xác phàm tục thô lậu của anh hàng thịt thì phải ra đi; phải  chấp nhận cái chết, chấp nhận việc làm sai trái của quan trên Trời! 

Ban đầu, vợ, con dâu và bé gái rồi cả ông hàng xóm Trưởng Hoạt đều chấp nhận Trương Ba. Họ chấp nhận một người thân như vừa hôn mê tỉnh dậy. Chỉ có anh con trai lại nhìn vấn đề này theo cách tính toán làm ăn: Cái xác hàng thịt sẽ làm cha anh đóng vai xứng đáng người chủ lò mổ. Và đó là kinh doanh, là đồng tiền tươi sống! 


Cái điều anh con hí hửng, thấy hời lại là điều bất hạnh cho Trương Ba và cho tất cả mọi người! 


Phần cuối vở kịch có 3 cuộc đối thoại đẩy nhân vật vào đường cùng nếu không muốn tha hóa.


Cuộc đối thoại thứ nhất là giữa Hồn Trương Ba và Xác Hàng Thịt. 


Cuộc đối thoại thứ hai là Hồn Trương Ba với Vợ, với con Dâu, với cháu Gái. 


Cuộc đối thoại thứ 3 là với Đế Thích. 


Chỉ nhìn vào số lượng câu chữ trong lời thoại thì ta thấy dễ dàng một quan hệ tỷ lệ nghịch. 


Hai cuộc đối thoại đầu Hồn thất thế.


Cuộc đối thoại thứ 3 Hồn chiếm ưu thế với Tiên Cờ Đế Thích. Hồn thấy bất ổn. Lời tự vấn cho thấy cái cay đắng hiện tại và cái ước mong giải thoát:


“Hồn Trương Ba: (Ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy) Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! (Nhìn chân tay thân thể). Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này dù chỉ là một lát!”


Xác phản công, Hồn bị động trở nên lúng túng, ngượng nghịu  Rồi chuyển thành lắp bắp chỉ còn những thán từ biểu hiện thái độ tình cảm tuyệt vọng không lý trí. 


Đúng thế, Xác chỉ e dè ban đầu nhưng sau đó nó nắm thế hoàn toàn chủ động. Càng nói, Xác càng bốc lên đè bẹp ý chí phản kháng của Hồn.


Nếu nhìn vào văn bản, ta thấy hai cuộc đối thoại đầu, Hồn nói những câu ngắn; nội dung không nhiều; chủ yếu là lời của người yếu thế không chủ động. 


Thì chính Hồn đã thấy sự tồn tại của mình lúc này là phi lý, là vô nghĩa và phải quyết định đi đến một giải pháp khốc liệt không dễ gì thanh thản. 


Xác hàng thịt trịch thượng: "Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia, ông không tách ra khỏi được tôi đâu dù tôi chỉ là thân xác.."


Dù Hồn có dùng các tiêu chí đạo đức để phẫn nộ, nguyền rủa Xác thì Hồn càng lúc càng yếu thế. Bởi Hồn không thể sống nguyên vẹn là mình. Mọi hành động thô lậu của một kẻ ăn nhậu, ham nhục dục, và thô lỗ như đánh con trai chảy máu không thể Hồn đứng ở bên ngoài được. 


Xác đã làm Hồn đuối lý nhận ra sự thật cay đắng: "Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!"


Hãy đọc một đoạn sau để thấy lời của Hồn chỉ là nhát gừng, bối rối, than thở tuyệt vọng. Còn lời của Xác đầy hào hứng đắc thắng tiểu nhân; bắt Hồn phải kéo cờ trắng: 


"Hồn Trương Ba :Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.(13 tiếng) 

Xác hàng thịt: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải lỗi tại tôi.. (Buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. ông nhìn ngắm trời đất cây cối người thân… Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người. Người ta xâm phạm thể xác.. Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào có tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống với hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở nhếch nhác.. Mỗi bữa cơm tôi đòi ăn 8,9 bát cơm, tôi thèm ăn thịt hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ 8,9 bát cơm cho tôi ăn chứ?(167 tiếng) 

Hồn Trương Ba: Nhưng..nhưng.."( 2 tiếng) 


Khi đối thoại với người nhà, Hồn cũng bị dồn vào đường cùng. Ngôn ngữ cũng ngắn và quanh co thiếu hướng giải quyết tích cực:


"Hồn Trương Ba : (Nhẫn nhục) Gái rồi lớn lên cháu sẽ hiểu…Ông đúng là ông nội cháu.(13 tiếng) 

Cái Gái: Ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông. Ông dám nhận là ông nội, dám đụng vào cây cối trong vườn của ông nội tôi.(37tiếng) 

Hồn Trương Ba: Dù sao.. cháu… sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn, cháu không thấy sao. Chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây đến thế!

Cái Gái: Quý cây! Hừ, tôi phải rình lúc này cả nhà đi vắng hết để nói với ông: từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ông tôi nữa! Ông mà quý cây à? Sáng qua tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, dẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm. Ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy!

Hồn Trương Ba: Ông không dè.. đấy là..tại.."


Vợ muốn bỏ nhà đi xa; con dâu thông cảm nhưng thấy "Nhà ta như sắp tan hoang cả…".


Đứa cháu Gái thì quyết liệt phủ nhận. 


Hồn đã không chốn nương thân. Nếu sống trong tình cảnh không thể sống này thì phải có cách nhờ Thần Linh.


Cuộc đối thoại thứ 3 với Đế Thích để tìm về với Bản Ngã tự thân đích thực của mình khiến cho Hồn tìm lại tính cách cao khiết mà quyết liệt của kẻ sỹ. Hồn không chấp nhận ván cờ trái ngang của Định Mệnh. Hồn phải thắng Tiên Cờ Đế Thích bằng một quyết định mà với người trần mắt thịt là lựa chọn cái chết. Trong thế giới Mê không dễ gì người ta lựa chọn điều này! Cho nên quan sinh tử luôn là cửa ải đáng sợ nhất, uy hiếp ghê gớm, ám ảnh ghê gớm thế giới con người! 


Không nằm trong thế giới tu luyện; không phải là Chân Tu chân chính, đa số con người đều sợ chết. Có kẻ nói về cái chết rất nhẹ nhưng khi chạm vào nó lại thụt đầu như rùa. 


Vậy nên, lựa chọn cái chết để bảo toàn nhân phẩm, nhân cách luôn là lựa chọn khó khăn, tuyệt đối khó khăn với những ai chưa chín thơm, chín ngọt trong Đạo…


Khi người ta nhìn thẳng vào cái chết. Nói đúng ra cái chết không làm người ta sợ hãi nữa thì ngôn sẽ "chính" và lời nói ra sẽ "thuận". 


Đây là màn đối thoại giữa Người và Thần nhưng chúng ta thấy có sự hoán vị về hai tính cách này. Hồn Trương Ba cao khiết là Thần. Và Đế Thích ngơ ngác với tâm lý tự tư mới là Người! 


Do đó mà có độ chênh. Hai bên khó đọc được tư tưởng của nhau! 


Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng:


"Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn..."


"Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.


Người ta đã viết rất nhiều về cuộc đối thoại này. Đặc biệt, là hai lời thoại trên. 


Lưu Quang Vũ đã nói điều không mới nhưng day dứt loài người, day dứt bản thân con người trong thời hiện đại. 


Cái thời mà người ta nói nhiều tới hai chữ "tha hóa". 


"Tha" là người khác, "hóa" là biến thành. "Tha hóa" là hiện tượng xuất hiện một cách phổ biến của thời đại tôn sùng đồng tiền; tôn sùng lối sống hưởng thụ vật chất một cách thực dụng.


Vua hề Sac-lô đã có bộ phim "Thời đại tân kỳ" để đời. Con người tự nhiên đã được thay thế bằng con người cơ khí máy móc. Thực ra, Lão Tử cách chúng ta gần 3000 năm trước đã nói về khái niệm "cơ tâm". Khi tâm người bị những yếu tố ngoài chi phối điều khiển thì nhân tâm bại hoại. Khi Tâm Pháp không duy trì đạo đức xã hội thì cũng là lúc chuông nguyện hồn ai…


Lưu Quang Vũ là con người của thời đại này. Phần hậu thiên của nhân loại hôm nay là kiến thức chuyên môn cùng với vô vàn những tranh đấu để giành giật Danh, Lợi, Tình. Nhân loại biến dị nên mới có những tính cách biến thái mà ta thường ngợi ca là người đa nhân cách, người phong phú về tâm hồn... 


Họ Lưu gióng lên những hồi chuông báo động về tình trạng tha hóa có tính phổ biến. Nếu chống lại quy luật này, anh sẽ rơi vào bi kịch. Hồn Trương Ba ở đây là biến tấu của một Hăm-let thời hiện đại. 


Thực ra, để cho dễ hiểu và khớp với logic, những người nghiên cứu tác phẩm này cho rằng Lưu Quang Vũ rất khiên cưỡng khi để cho Xác đối thoại được với Hồn. Họ cho rằng, trong thân xác anh hàng thịt có hai linh hồn; hai tính cách cả thể. Nó mang dấu ấn cá nhân của hai con người trong đời thực khi cả hai còn sống.

 

Có một anh hàng thịt với đủ cả phần Hồn lẫn Xác. Và có một Hồn Trương Ba sống tầm gửi vào thân xác anh hàng thịt đó.


Hiện tượng "nhập xác" của ngày xưa nó giản dị như trong truyện cổ.  Chỉ có một linh hồn. Nó quyết định cá thể ấy. Xác chỉ là bộ quần áo mà hồn mặc lên. Xác nào cũng không có ý nghĩa. Hồn mới là chủ thể duy nhất. Có điều, không có xác, Hồn không thể tồn tại như một sinh mệnh trong xã hội con người! 


Có lẽ loài người thời mạt Pháp trên bề mặt xã hội hàng ngày có sự biến dị nên ở thế giới mắt thường ta không thấy được cũng có những biến dị đối ứng?


Hiện tượng hồn  ông Trương Ba hôm nay chung với Hồn anh hàng thịt kia trong một thân thể cũng phản ánh một phần của sự lệch chuẩn trong cả vũ trụ rộng lớn chăng? 


Tất cả đang lệch khỏi nguyên lý Chân, Thiện, Nhẫn vốn là bản chất, là đặc tính nguyên sơ của vũ trụ!


Hiển nhiên, thời Mạt Pháp thì những gì Xấu, những gì cặn bã sẽ lên ngôi. Hồn Trương Ba phải ra đi là tình thế thất thủ của  cái Thiện. Bởi đây là thời ma Ba Tuần và quỷ Sa tăng đang quấy đảo thế gian, khống chế con người mê trong thất tình lục dục…


Có lẽ khi viết vở kịch này, Lưu Quang Vũ cũng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp muốn mở con đường mới cho văn học Việt Nam đi vào phản ánh những vấn đề nhân sinh vốn là bản chất của nghệ thuật.

 

Lấy thế giới mà loài người gọi là ảo, Lưu cũng muốn qua đó mà phản ánh thực tại trên mặt đất này. 


Nhưng những năng lượng chi phối phía sau con người nói chung và người nghệ sĩ nói riêng không đơn giản. 


Có thể, Lưu cũng có một sứ mệnh đặc thù nào đó từ một sinh mệnh cao tầng trao phó nên ông đang truyền một thông điệp hiện thực khác: Rằng, có thế giới khác. Rằng, những gì diễn ra trên sinh mệnh con người là không đơn giản như ta tưởng tượng. 


Đọc trên báo mạng tôi biết được một số thông tin về hiện tượng  mà ta hay nói là "nhập hồn, chiếm xác" hoặc phổ biến nhất người ta nói là "ma nhập". Hiện tượng này càng ngày càng phức tạp. Đọc bài của anh Cao Xuân Cường với tựa đề "Tôi đã trục xuất được cái ‘vong’ ra khỏi thân thể và tử thần cũng tha cho tôi…"có số  điện thoại kèm theo : 097.466.2992. Tôi rất tin hiện tượng này: "Tôi bị vong nhập thật khó lý giải nhưng đó là sự thật”.


Năm 2009 cũng là để mong tìm lại được sức khỏe, tôi có tham dự một buổi gọi hồn tại số 1 Đông Tác, Hà Nội, gia đình tôi lên để gọi hồn mẹ tôi về. Khi người chủ lễ “tụng” xong thì hônd bắt đầu tìm các nhà để “nhập”. Gia đình tôi cũng vậy, vì là một buổi gọi hồn tập thể nên có rất nhiều gia đình khác trong cùng một căn phòng lớn. Lúc đầu hồn nhập vào những người khác trong nhà tôi, nhập vào rồi lại bật ra, cuối cùng “nó” nhập vào tôi. Những người khác khi bị hồn nhập thì hầu như không biết gì, còn tôi thì chủ ý thức rất minh bạch hoàn toàn biết chỉ không thể khống chế được các hành vi và lời nói của chính mình.


Cái hồn ấy không biết có phải là mẹ tôi không, nó làm tôi bò lê bò càng lăn lộn khóc lóc khắp căn phòng, mọi người thi nhau vái lạy. Sau khi người nhà hỏi han một hồi người chủ lễ bắt đầu khấn trục xuất hồn đi. Chỉ riêng tôi có thế nào hồn cũng không chịu ra, tôi phải sang phòng Thánh điện bên cạnh đảnh lễ thì mới được. Khi trở về Lạng Sơn hai ngày sau tâm trạng tôi rất tồi tệ, một nỗi sợ hãi vô hình lạnh xương sống cứ đeo bám. Cái hồn nó nhập trở lại, thậm chí nửa đêm gọi vợ tôi dậy nói là cụ nội…. khiến vợ tôi xanh mắt.


Có rất nhiều chuyện không thể giải thích, không thể kể hết, tôi bị các loại hồn nhập chiếm xác. Thân thể tôi cứ như là cái thùng rỗng vậy “họ” ra ra, vào vào như nhà không chủ. Cứ hễ đến nơi tâm linh hoặc nói chuyện đến là “nó” tiến nhập vào. Có một buổi chiều hè vợ tôi bảo hai bố con đi bơi ở bể bơi. Trong thâm tâm tôi rất bất an, tôi thấy một cảm giác lo lắng chuyện gì đó và không chịu đi. Nhưng vì vợ nói không sao hết nên tôi đưa con ra bể. Y rằng vừa ra đến đó tôi bị một cái hồn trẻ em nhập vào, “nó” nói rằng “nó” bị chết đuối ở đấy rồi đòi tôi tìm nhà của “nó” cho “nó” về. Tôi đi theo sự chỉ dẫn của “nó” nhưng mãi cũng không tìm ra. Tôi đành đến hỏi cậu bảo vệ bể bơi cũng là bạn của tôi rằng có ai đó đã chết ở đây đúng không? Cậu ấy nói rằng ngày trước đúng là có một đứa trẻ đã bị chết đuối ở đây…


Ngoài chịu đựng bệnh tật, tôi còn phải đối diện với sự quấy phá của cái hồn đã theo tôi từ Hà Nội về. Trước khi đi ngủ hễ tôi buông lơi ý thức một chút là “nó” bắt đầu hành hạ, đầu tôi cứ bị lắc và bị bẻ ngoặt sang một bên, người thì rung lên bần bật không thể cưỡng lại được. Đêm nào cũng như thế, phải mất 30 phút “nó” mới “tha” cho tôi, nếu tôi thanh tỉnh, thì nó không làm gì được, nhưng mà thanh tỉnh như vậy thì ngủ làm sao được.


Những ngày đầu tiên, tôi rất sợ hãi và đối diện với “nó” như trận chiến, rất căng thẳng và mệt mỏi. Mất hàng tháng trời như vậy, vợ tôi yêu cầu đi khám thần kinh, tôi biết tôi chẳng bị làm sao cả chỉ vì cái hồn kia nó hành hạ thôi. Nể vợ tôi đi khám, bác sĩ kết luận triệu chứng do căng thẳng thần kinh rồi cho một mớ thuốc ngủ mang về. Tôi chẳng thể uống vì tôi có bị làm sao đâu. Tôi cũng đi các nơi để trục xuất cái hồn ấy ra mà không nổi, tôi cũng đã đến cả chỗ ông Liên nổi tiếng ở Hải Dương. Lâu dần tôi cũng trơ ra chẳng thèm để ý đến “nó” nữa. Mỗi tối cứ như điệp khúc, phải “hát” xong mới được đi ngủ, “nó” cứ lắc một hồi tôi mới được yên thân. Nằm ngẫm nghĩ cuộc đời mình sao mà gian truân thế, mới có ít tuổi thế này phía trước chặng đường còn ngắn hay dài đâu thể biết, chỉ thấy rằng mỗi ngày trôi đi lại thêm bế tắc. Mỗi lần đi chữa bệnh không còn đơn thuần nữa mà kèm theo việc đuổi hồn đi… Đã mấy năm trôi qua, tôi kiệt quệ về tài chính, mệt mỏi về tinh thần, thân bệnh đau nhức khôn nguôi… đầu óc tôi lúc ấy đã lởn vởn đến hai từ “tự vẫn”…


Cho đến một ngày…"


Thật đáng sợ! Chỉ cách chừng 2 thập niên, từ ngày Lưu Quang Vũ viết vở  kịch, hiện tượng nhập hồn đã biến thái trầm trọng hơn. Những vong, hồn đã coi thân người như ngôi nhà không cửa, không phên vách. Nó đi vào cơ thể con người như người ta tự nhiên đi vào chợ.


Ở Nghệ An có thời rộ lên hiện tượng nhập đồng để tim mộ liệt sĩ. Rất nhiều các câu chuyện ly kỳ đã được kể lại khiến ta không thể nghi ngờ... 


Thực ra, khi tiếp cận với Pháp cao tầng của Phật Gia và Đạo Gia thì điều Lưu Quang Vũ viết trong vở kịch là những bí mật của thân thể con người, vốn là "tiểu vũ trụ" không thể dùng khoa học thực chứng mà lý giải!  


Thích Ca Mâu Ni đã từng ví thân xác chúng ta chỉ là cái bè lau mùa nước lũ dành tạm cho người qua sông về với gia đình. Cái Mê của con người là sau khi qua sông người ta không vứt nó mà đi đâu cũng đội nó trên đầu. 


Quan niệm này thể hiện qua hình tượng cái Xác nổi tiếng ở phần cuối "Tây Du Ký".


Khi đến Linh Sơn, Đường Tăng phải tắm gội ở am Ngọc Chân để tẩy sạch bụi trần, rồi qua bến đò Lăng Vân lại phải thoát thai hoán cốt, rũ bỏ xác phàm mới có thể mang cái thân thuần tịnh mà đi gặp Như Lai Phật Tổ. Chúng ta hãy đọc đoạn này: 


“Tôn Đại Thánh chắp tay đa tạ, nói: ‘Xin cảm ơn tấm lòng tốt đón tiếp sư phụ tôi. Xin mời sư phụ lên đò nào. Chiếc thuyền này tuy không đáy nhưng vững vàng lắm, nhỡ có sóng to gió cả cũng chẳng lật được’.


Tam Tạng bấy giờ vẫn chưa yên tâm, Hành Giả đứng khoanh tay trước ngực, bất ngờ ẩy mạnh một cái, Tam Tạng đứng không vững, rơi đánh ào một cái xuống nước. Tiếp Dẫn Phật Tổ nhanh tay đỡ lấy, dắt xuống đò. Tam Tạng vừa phủi quần áo, vừa giậm chân oán trách Hành Giả. Hành Giả dắt luôn cả Sa Tăng, Bát Giới dắt ngựa gánh đồ xuống đò. Thầy trò đứng cả ở đằng mũi đò. Phật Tổ nhẹ nhàng ẩy con đò ra. Bỗng thấy phía thượng lưu một xác người trôi xuống. Tam Tạng sợ hãi luống cuống.

Hành Giả cười nói: ‘Sư phụ đừng sợ. Xác đó là sư phụ đấy’.

Bát Giới cũng nói: ‘Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi!’.

Sa Tăng vỗ tay nói: ‘Đúng sư phụ rồi! Đúng sư phụ rồi!’.

Tiếp Dẫn Phật Tổ giơ tay làm hiệu nói: ‘Đúng là ngài! Xin chúc mừng! Xin chúc mừng!’.

Ba người cùng đồng thanh họa theo lời Phật tổ. Con đò được chèo đi, trong chớp mắt đã vững vàng rời khỏi bến tiên Lăng Vân sang tới bờ bên kia. Tam Tạng quay người nhẹ nhàng bước lên bờ.


Có bài thơ làm chứng rằng:


“Thoát rồi xương cốt trần gian, 

Tương thân tương ái vượt sang Niết Bàn. 

Viên mãn thành Phật thỏa lòng, 

Từ nay rửa sạch bụi trần lâng lâng”.


Ta thường lấy quan niệm hiện đại, văn minh hôm nay mà mỉa mai người xưa cho rằng "vạn vật hữu linh".


Phật, và Đạo đều thống nhất "Bốn Trong Một". Vâng, nếu coi Vật Chất, Tinh Thần, Sinh Mệnh và Năng Lượng đều là một thể thì cái nhìn của Lưu Quang Vũ đã nâng tầm nhận thức mới về Thân Thể, về Sinh Mệnh con người. Đây quả là thứ trân quý và bí mật nhất trong những bí mật mà nhân loại phải qua con đường tu luyện mới khám phá được. Khoa học thực chứng và lo-gic suy luận thông thường của chúng ta mãi mãi sẽ là những hàng rào khiến ta bò lết mãi mãi mà không ra được.

 

Đạo Gia cho rằng thân thể người là tiểu vũ trụ. Nó có hàng tỷ tỷ tỷ các sinh mệnh thể cùng chi phôi bởi một thứ Công (năng lượng) đặc thù. 


Con người chết đi, linh hồn rời khỏi xác. Mọi tế bào rời ra, nhục thân thối rữa nhưng trong vô vàn các không gian khác, các thể sinh mệnh ấy vẫn tồn tại. 


Khi hồn Trương Ba nhập xác thì xác ấy có Hồn nên nó tồn tại như một con người vốn hiện hữu. 


Do đó, việc Xác và Hồn đối thoại và có quan niệm sống đối lập là điều có thể hiểu được. 


Ngoài xã hội cái Ác đang chiếm ưu thế. Những kẻ xôi thịt đang khống chế con đường đi của nhân loại; kẻ sỹ như Trương Ba thưa thớt thậm chí thành kẻ dở hơi, thì ưu thế của xác hàng thịt thượng phong hơn hồn Trương Ba là tất yếu. 


Con người không được sống là chính mình chính là bi kịch lớn của thời Mạt Tận. 


Đứng dưới góc độ tâm linh mà nhìn thì thế giới con người gồm cả phần hồn và xác rất phức tạp. Cái mà ta gọi là Hồn nó tương đương với khái niệm Nguyên Thần. Nó chính là phần Chủ Ý Thức của con người. Những ai bị các sinh mệnh và tín tức ngoại lai khống chế cầm tù thì chính Chủ Ý Thức không điều khiển được mình. Đó là nguồn gốc của cái mà ta gọi là Bệnh Tâm Thần. 


Rõ ràng, khi Chủ Ý Thức của Trương Ba đi vào một thân thể chứa đầy Hậu Thiên của anh Hàng Thịt thì độ vênh, sự tương khắc là không thể…

 

Linh Hồn trong bản chất sâu xa luôn có Phật Tính, luôn trung thành với Chân, Thiện, Nhẫn. Khi sống trong thế giới Mê, cái phần Thiện căn ấy bị vùi lấp, thậm chí bị vùi dập. Hồn Trương Ba không chống nổi, không thể tương thích với xác anh hàng thịt cũng chính là phản ánh đối ứng giữa cái phần Thiện nảy mầm cây nhân Đức của Trương Ba và phần Hậu Thiên tích tụ Nghiệp của anh hàng thịt khi sống trong Mê của  xã hội.


Người xưa cho rằng: “Nhân chi sơ tính bản Thiện". Đó là cái Tiên Thiên vốn có; nhưng càng sống, càng khôn ngoan, càng tranh đấu con người bị phần HậuThiên làm cho Mê đi "tập tương cận, tính tương viễn".

  

Những người theo khoa học, theo duy vật cho rằng: "Thân" là “hình nhi hạ”, là cái phần vật chất duy nhất của con người, là phần hữu hạn, bé nhỏ, dễ hư nát.


Trên bề mặt nông cạn người ta nói Đạo Giáo  coi Thân là cái cớ để chịu khổ đau; Phật Giáo coi chân thân vô thân. Nó là biểu hiện của một kiếp luân hồi…


Thực ra, trong Phật Giáo nguyên thủy, Thích Ca Mâu Ni truyền La Hán Pháp mặc dầu Pháp của ông rất cao thâm. Ông giảng Niết Bàn. Tức là, người tu luyện chịu khổ, trả nghiệp, khi viên mãn bỏ lại xác thân mang theo Công mà đi về cảnh giới trên cao…


Thực ra, những Đại Pháp cao thâm theo "tính mệnh song tu" thì Thân Xác rất quan trọng. Các Lạt Ma Tây Tạng viên mãn đều theo hình thức "quang hóa"; Đạo Gia thì "bạch nhật phi thăng"...


Như vậy, khi viên mãn, cả Công và thân cùng đi về Thiên Quốc chứ không bỏ thân lại theo kiểu Niết Bàn!


Do đó, có cái gì đó như là mách bảo của sinh mệnh cao tầng, Lưu Quang Vũ đã nói với chúng ta một sự thật, một bí mật  mà ở thế giới Mê con người không dễ gì chấp nhận: Thân Thể không chỉ là một tảng thịt.


Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lý mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…

Xác hàng thịt: Có đấy! Xác hàng thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông!

Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng không có cảm xúc!

Xác hàng thịt: Có thật thế không?

Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất cứ con thú nào cũng thèm được: Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt..



Cũng trên Đại Kỷ Nguyên tôi đọc được hai bài viết của Minh Thành nghiên cứu khá nghiêm túc về vấn đề vong nhập, hồn nhập xác.


Tuy nhiên, các hiện tượng này dường như đối lập với câu chuyện của Lưu Quang Vũ. Hồn ở đây là Ma. Chúng đẩy Hồn của một cá thể ,chiếm hữu khống chế và làm cho con người bình thường có những biểu hiện như điên loạn... 


(" Bảy dấu hiệu phân biệt người có vong nhập, ma nhập và bệnh tâm thần thông thường" *"Nếu bị vong áp, hồn nhập, làm thế nào để trục xuất chúng?")


Tôi lược trích ra đây một số ý để chúng ta tham khảo:


Thực tế có nhiều người bị "vong nhập, hồn chiếm xác" nhưng không biết kêu ai bởi lẽ người ta chẳng nhìn thấy vong ấy có hình thù thế nào, hơn nữa đa số người trong giới khoa học đều cho đó là chuyện nhảm nhí. Vậy là những nạn nhân này bị xếp chung vào nhóm “tâm thần”, mắc bệnh thần kinh và chữa trị theo y khoa hiện đại.


"Vong nhập" là hiện tượng liên quan đến thế giới tâm linh, cũng có thể coi đó là thế giới vô hình vì người ta không nhìn được qua con mắt thông thường. Người “bệnh” bị một đối tượng (vô hình) hay còn gọi là vong, linh hồn chiếm xác và chi phối một phần hoặc kiểm soát toàn bộ các hành vi (bao gồm ngôn ngữ) của người này.


Trong dân gian, người ta vẫn gọi đây là bệnh phần âm, ma nhập, bị phần âm “hành”, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Các đối tượng bị ma nhập rất đa dạng, nam nữ già trẻ đều có nhưng dường như tỉ lệ xảy ra đối với nữ cao hơn.


Người không bị nhập có toàn bộ hành vi và lý trí như một người bình thường, cá tính quen thuộc như gia đình và bạn bè xưa nay vẫn thấy. Tuy nhiên, khi bị ma nhập sẽ đột ngột có biểu hiện khác lạ, sự khác lạ này phụ thuộc vào “đối tượng” chiếm xác.( tác giả liệt kê có 7 biểu hiện) 


Nhìn chung biểu hiện của người bị "vong nhập" rất phong phú và đa dạng. Hãy tưởng tượng thân người xương thịt kia như một cái áo, linh hồn nào nhập vào đó (giống như mặc cái áo thịt kia lên) thì sẽ có những biểu hiện riêng của chính nó. Linh hồn thường tinh ranh hơn người thường, nên đôi khi còn có biểu hiện mà người bình thường không hiểu được.


Hiện tượng "nhập hồn" có thể gây nhiều phiền toái cho người bị chiếm xác, nhưng đa phần mọi người đều “bó tay” nhìn mà không biết xử lý ra sao. Cũng có trường hợp mượn thầy pháp sư về cúng và đánh đuổi hồn đi nhưng không phải luôn thành công. Đôi khi phần vô hình quá tinh khôn, còn dẫn dụ thầy pháp tiếp tay tra tấn nạn nhân bằng lửa, roi dâu hoặc làm nhục với đồ dơ như phân gà, máu chó. Tệ hại hơn nữa, có khi thầy pháp đánh đập người bị nhập đến chết.


*Tiến sĩ Alan Sanderson, một người thực hành liệu pháp trục xuất linh thể cho biết trên bài báo của mình có tên “Liệu pháp trục xuất linh thể: Nó là gì và có thể làm được gì?”: “Tôi muốn nhấn mạnh rằng khái niệm nhập hồn và thực hiện trục xuất linh thể không dựa trên đức tin, tôn giáo và niềm tin huyền bí. Chúng dựa trên quan sát các trường hợp lâm sàng và phản ứng đối với các kỹ thuật điều trị tiêu chuẩn. Đây là một cách tiếp cận khoa học mặc dù có tính đến kinh nghiệm chủ quan và không bị giới hạn bởi lý thuyết khoa học đương đại.”


Nhiều nhà nghiên cứu đồng tình cho rằng hiểu biết hiện đại về cơ thể người, đặc biệt là bộ não còn rất hạn chế. Có những hiện tượng tồn tại hết sức thực tại trong xã hội nhân loại vượt khỏi khả năng lý giải của khoa học thực chứng hiện đại. Máy móc ngày nay cũng không cân, đo, đếm được linh hồn, không hiểu được hành vi của linh hồn… nên đa số người ta gom chung lại cho là mê tín. Nhưng thực ra đó chỉ là giới hạn phân tích của khoa học, cũng tương tự như khả năng nhìn bằng mắt thường của con người, rất có giới hạn. Nhân loại không cảm nhận được sự tồn tại của các loại sóng điện thoại, wifi… nhưng chúng vẫn luôn ở đó và hoạt động phục vụ con người.


Đối với một số người có khả năng nhìn bằng con mắt thứ 3 (khả năng ngoại cảm) thì linh hồn hết sức thực tại và sống động. Cảm nhận của những người bị hồn nhập cũng rất thực tại, nhìn chung đều thấy như thể là “bị đánh bật” ra khỏi cơ thể, mất quyền kiểm soát cơ thể (bao gồm cả tay, chân, giọng nói…), cơ thể bị linh hồn đang chiếm giữ điều khiển.


Một khi bị hồn nhập, hành vi của “người này” có thể thay đổi hoàn toàn, do vậy nhiều trường hợp bị gom chung lại thành những trường hợp mắc bệnh tâm thần, người đa nhân cách… nhưng thực ra họ đang bị “mất quyền kiểm soát”.


Trên mạng đang lan truyền một bức thư cô giáo Minh Ngọc viết cho học sinh trong lễ trưởng thành ở trường Đinh Thiện Lý. Trong lời khuyên thứ hai cô muốn "con phải luôn sống là chính mình". Cô đã khai thác ý nghĩa tư tưởng nhân sinh của tác phẩm:


"Chắc con còn nhớ vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ? Bi kịch sống khác mình, sống không được là mình thật đau đớn, giằng xé phải không con?

Khi sống là chính mình, con sẽ luôn nhẹ nhõm, sẽ luôn an vui, sẽ luôn cảm nhận được hạnh phúc. Sống là chính mình cũng giống như con bơi theo dòng chảy, nước sẽ nâng đỡ con. Sống khác với chính mình giống như con vật lộn với dòng nước ngược, vất vả và mệt nhọc.


Cô tặng lại các con lời bài hát "Bông hoa duy nhất trên thế gian" của Nhật Bản nhé:


Là bông hoa duy nhất có mặt trên thế gian này

Mỗi chúng ta đều có hạt giống của riêng mình

Vì vậy hãy cố gắng hết mình

Để những hạt giống nở rộ thành hoa

Những bông hoa dù lớn hay nhỏ

Chúng không hề ganh đua xem hoa nào đẹp nhất

Tất cả đứng chung trong một cái lọ

Xinh đẹp và kiêu hãnh biết bao

Bạn chẳng cần phải trở thành số một

Bắt đầu với việc là chính mình


Bạn đã là người đặc biệt…


Hãy nhớ, luôn là chính mình vì con luôn riêng biệt và có giá trị."


Trong nghiên cứu xã hội, người ta nói tới hiện tượng mà Lưu Quang Vũ khai thác trong tác phẩm này là  "tha hóa". Người ta thường cho học sinh những đề văn liên hệ tới kiểu nhân vật đồng dạng. Đa số là liên hệ tới  Chí Phèo của Nam Cao.

Trên bề mặt thì cả hai đều là bi kịch tha hóa; cả hai đều không thể dùng nhân cách lương thiện để chống lại áp lực ưu thế của cái Ác; cả hai phải dùng cái chết để thăng hoa tư tưởng nhân văn...

Nhưng đứng ở góc độ tâm linh thì vở kịch của Lưu Quang Vũ  phức tạp hơn nhiều.

Đây không chỉ là một tác phẩm phản ánh hiện thực thuần túy. Nó đã đi vào thế giới tâm linh. Một đề tài vĩnh cửu nhưng không phải ai cũng có thể Ngộ, có thể nhận thức được... 

Đi theo hướng này, nó có thể gợi cho ta nhiều khám phá mới, nhiều điều thú vị mới ... 

La Vinh 





Từ khóa: n/a

Các bài viết liên quan:

Những tác phẩm cũ hơn:

Những tác phẩm mới hơn:

 
Mời các Tác giả gửi bài cộng tác cho Ban Biên tập Nhà Búp qua hộp thư email: nhabup.vn@gmail.com
Văn phòng Thường trực Ban Biên tập Nhà Búp: Số 24, Lý Thường Kiệt, Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội;
Ngoài địa chỉ: www.nhabup.vn, bạn có thể truy cập vào website này qua các tên miền quen thuộc: www.nhabup.net hoặc www.nhabup.com
Website đang được thử nghiệm và điều hành phi lợi nhuận, bởi các tình nguyện viên.