Có lịch sử tháng năm với một lứa văn chương mang tên “Nhóm Búp”

Có lịch sử tháng năm với một lứa văn chương mang tên “Nhóm Búp”
Trên thế giới, đã có ba nước từng mở trường dạy Viết Văn như Học viện Văn học Goóc-ki (Nga) – Bê-se (Đức) và Trường Viết văn Nguyễn Du của Việt nam. Nhưng, thực tình, không trường lớp nào trên quả đất này có thể đào tạo được nhà văn. Bởi, tài năng văn chương mang đặc điểm hết sức đơn nhất. Bởi, mỗi nhà văn, họ là những vũ trụ riêng biệt.

                                                 

 

                         


Cách đây hơn 40 năm, vào mùa hè năm 1976, khi đánh thắng Mỹ, thống nhất đất nước, Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình là tỉnh đầu tiên trên cả nước đã khởi xướng việc mở lớp “Đào tạo, bồi dưỡng các em thiếu nhi có năng khiếu sáng tác văn học” vào các tháng hè.

 

Sở dĩ, Thái Bình có sự quan tâm đặc biệt này, bởi ông Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, sau này là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói với Nhà văn Bút Ngữ, vị Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình lúc ấy, rằng: “Thái Bình, đâu chỉ đất lúa. Thái Bình có 111 vị Tiến sĩ lưu danh bia đá trong Văn Miếu Quốc Tử Giám. Thái Bình có Lê Quý Đôn, Ngô Quang Bích, Nguyễn Bảo, Ngô Quang Đoan, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Doãn Cử v.v ... Thái Bình là đất Văn. Đất văn hiến ...” 


Từ cái nghĩ ấy, năm 1971, Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình ra đời.         Hàng loạt các hoạt động, trong đó có “Lớp Đào tạo bồi dưỡng năng khiếu sáng tác văn học cho các em” đã đem lại một không khí văn chương khởi sắc ở một tỉnh vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ. 


Có tới 13 - 14 năm liên tiếp, Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình luôn mở lớp bồi dưỡng các em viết văn và dành riêng một số Tạp chí mang tên “Búp trên cành” giới thiệu chủ yếu là tác phẩm của các em viết. 


Trên thế giới, đã có ba nước từng mở trường dạy Viết Văn như Học viện Văn học Goóc-ki (Nga) – Bê-se (Đức) và Trường Viết văn Nguyễn Du của Việt nam. Nhưng, thực tình, không trường lớp nào trên quả đất này có thể đào tạo được nhà văn. Bởi, tài năng văn chương mang đặc điểm hết sức đơn nhất. Bởi, mỗi nhà văn, họ là những vũ trụ riêng biệt. Bởi, lịch sử văn chương chỉ có một Quả núi: Xec-vang-tec, Lép Tôn-xtôi, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Chế Lan Viên, Xuân Diệu ... Bởi, lịch sử chứng kiến, có hàng thế kỷ, có không ít dân tộc, không ít tháng năm cuộc đời đầy phong lưu, biến cải. Nhưng, thiếu vắng những tài năng đơn nhất, thì cuộc đời có đấy, mà văn chương câm lặng, mất bóng. Cũng bởi vậy mà Thi sĩ Chế Lan Viên đã từng kêu lên rằng: “Thế kỷ hai mươi, nếu chúng ta không có một Nguyễn Du, không có một Truyện Kiều, thì dân tộc này tay trắng...”.


Vậy thì, cái “Lò luyện văn chương “ của Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình thuở nào với các thầy Tô Hoài, Phạm Hổ, Định Hải, Phong Thu, Bút Ngữ, Kim Chuông, Lê Bính... từng say mê cày cuốc, sẽ là gì với tháng năm chờ trông, hy vọng?

       

Vâng. Những người thầy văn chương ở đây mang ý nghĩa, họ là người khơi nguồn, đốt lửa. Người tạo nên những diện kiến, những đối thoại, va đập nào đấy, nhằm làm nên phút lóe sáng, phút những nghệ sĩ sáng tạo thăng hoa, kết tinh, khai sáng hồn mình.

   

Thật mừng và tự hào cho Văn Nghệ Thái Bình, từ hai trăm em đi qua lớp đào tạo các “Nhà văn nhí”, hôm nay, sau hơn 40 năm hành trình bước vào cuộc đời rộng lớn, có nhiều em đã ngoặt sang lối rẽ khác, nhưng khá nhiều em đã trở thành nhà giáo giỏi, dạy văn, những Phóng viên báo chí, những Hội viên của các Hội Văn học Nghệ thuật các tỉnh. Bốn tác giả đã có tới ba bốn đầu sách trình làng. Vài ba tác giả đã nhiều lần đoạt Giải cao trong các cuộc thi sáng tác Văn học trên phạm vi cả nước. 


Từ “Lò luyện văn chương” được “tụ nghĩa” thuở ấy, họ đã làm nên niềm tự hào cho họ, cho đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ Thái Bình, góp vào dòng sông lớn sức vọng vang của nền thi ca dân tộc.


Có thể gọi đây là điểm sáng, là sự kiện lịch sử văn chương không dễ vùng đất nào, không dễ ở đâu, không dễ tháng năm nào, có được. Khi vào dịp hè năm 2019, tập văn thơ “Búp và Hoa”, sách dày 424 trang, của 23 tác giả được tập hợp, ra mắt công chúng bạn đọc. 


Với những cái tên: Bùi Lan Anh, Phạm Lan Anh, Bùi Thị Biên Linh, Trần Huyền Tâm, Bùi Thanh Huyền, Phạm Hồng Oanh, Lã Thị Bắc Lý, Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Thị Toán, Vũ Huy Thông, Nguyễn Minh Hương, Phạm Minh Châu, Đào Thanh Bình, Nguyễn Diệu Liên, Minh Yến, Bùi Thái Phúc, Nguyễn Nga, Bùi Thị Ngọ, Trần Thu Huê, Trần Vân Hương, Lê Kim Hạnh, Trần Thị Minh Hạnh, Đỗ Thị Huệ ... Họ là những “môn sinh” từng đi qua Ngôi đền  văn chương của Hội. Họ đã xấp xỉ, hay đã bước vào cái tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh.” Họ tập trung phát sáng ở các khóa đào tạo từ 1976 đến 1987. Họ thực sự mang trong mình trái tim nghệ sĩ. Họ thuộc về thi ca. Và, thi ca đã đốt lên. Đã nhóm nhen. Đã giữ gìn tình yêu luôn tươi xanh, nồng đượm ấy trong họ. 


Với thời gian tập trung không dài ở các tháng hè. Với các bài sơ giảng về lý luận văn học. Với cái khó là làm thế nào để giản dị hóa những phức tạp của thuật ngữ, nội dung, thi pháp sáng tác văn học cho các em mới ở tuổi mười một, mười hai. Từ cảm xúc, hình ảnh - hình tượng. Từ cụ thể hóa đến trừu tượng hóa, khái quát hóa. Rồi, đề tài, chủ đề tư tưởng... Rồi, qua những chuyến đi chân lấm bụi đường để các em thâm nhập thực tế và viết ..

.   

Bốn mươi ba năm qua, gần nửa thế kỷ đời người, hôm nay cầm trên tay tập “Búp và Hoa,” thật mừng vui khôn xiết.


Mừng bởi một thuở, Thơ văn của các em buổi mới “mở mắt nhìn đời” với nét trội là cậy nhờ vào trực giác. Thơ của Thi nhãn. Thơ của cái Nhìn, cái Gặp. Của khả năng ôm trùm một thế giới bề mặt. Kiểu như : “Bạn gió mùa hè” của Lê Quang Đôn. Buổi sáng ở Thuận Vi” của Phạm Thị Lan Anh . Mùa quả chín của Bùi Thanh Huyền, Vườn cây đêm trăng của Đào Thị Bình, Cô lái phà của Lã Bắc Lý, Cây hồng của Bùi Lan Anh, Ngày chủ nhật của mẹ của Nguyễn Thị Toán, Dòng trà Lý của Bùi Thái Phúc, Ngõ nhỏ ngày mùa của Trần Huyền Tâm, Sông Hồng của Nguyễn Diệu Liên, ... Hay, với những trang văn xuôi, như: Cây bồ kết của Bùi Thị Sóng Biển, Bu tôi nhớ anh Tuấn của Đỗ Mai Hương, Loan của Nguyễn Thị Hạnh (Nguyễn Nga). Trên rừng Sa mộc của Trần Thu Huê, Làm chị của Trần Thị Vân Hương, Chuyện về một con gà của Vũ Huy Thông, Buổi đầu của Phạm Minh Châu, (Lam Châu), Trong ánh chớp pháo sáng của Minh Yến, Vườn ổi nhà tôi của Nguyễn Thúy Hằng, Châu chấu và Dế mèn của Đỗ Thị Huệ ...


Nhận xét về văn chương của các em thiếu nhi Thái Bình, nhà văn Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Võ Quảng đều khẳng định: “Do được đào tạo, bồi dưỡng bài bản, nhiều năm qua, ở nhiều cuộc thi, các em ở Thái Bình đều chiếm nhiều giải cao. Văn thơ của các em Thái Bình hay, trội vượt ở cảm xúc. Ở sự cảm nhận tinh tế. Ở hình ảnh, hình tượng nghệ thuật ...”.



Vâng. Khẳng định trước tiên vẫn là sự quý hiếm ở tháng năm ấy. Ở những gương mặt văn chương được chọn về lớp ấy. Họ thực sự mang nội lực của nghệ sĩ sáng tạo. Cái Nền, cái Gốc mà ông Trời phú cho trái tim các Nhà văn nhí này là vía hồn. Là tư chất, phẩm chất nhà văn. 


Văn chương là thế. Cũng đi qua lớp Đào tạo này “Con nhà nòi” như Phan  Minh, con trai Nhà Văn Bút Ngữ. Rồi Trọng Khang, Trọng Khải, hai con trai Nhà viết kịch Trọng Khuê. Mai Đàm Linh con gái nhà văn Thiếu Văn Sơn. Kim Nguyệt Hằng, con gái nhà thơ Kim Chuông ... một thuở viết nhiều, in nhiều, nhưng lặn chìm lúc nào chả biết. 


Sáng tạo văn chương có quy luật riêng. Không thể sống lâu lên “Lão làng”. Không thể cha mẹ truyền cho con. Không thể khi vốn sống, vốn chính trị, vốn hiểu biết, vốn nghề nghiệp phong lưu, giàu có, thì anh sẽ thành công hơn, viết hay hơn cái đã qua, anh viết.       


Bởi vậy, bốn mươi ba năm qua, 23 ngôi sao trong “Nhị thập tam tú, thi đàn Nhóm Búp” tựu nghĩa hôm nay, ý nghĩa và quý giá biết chừng nào. Văn chương họ một thuở là trực giác. Là đặt cược vào thế giới khách thể. Là hướng ngoại, là thơ tả, Văn tả. Tả mùa hè, tả Hoa hồng. Tả Buổi sớm. Buổi chiều, tả sớm mưa, chiều nắng... 


Qua quãng dài đãi lọc, đổi khác, văn chương của họ bây giờ đã khác. Thơ đã là, sự đổi thay của cả một không gian rộng lớn, của chiều sâu hồn người cầm bút. Ví như, “Đêm tương tư,” thơ của Bùi Lan Anh vừa viết, gửi bổ sung cho tập. Đây là cả niềm mê đắm, ngác ngơ, tan nát nỗi tương tư của thiên nhiên hay đấy chính là nỗi tương tư từ sâu thẳm hồn người:


Canh ba một tiếng sấm rền

Rơi như thảng thốt vào miền bơ vơ

Oằn mình cây trút lá khô

Sáng ra một thảm tương tư bên thềm


Hay, vẫn là sự bắt đầu của cảm xúc bùng nổ, thơ Phạm Minh Châu gợi, thấm loang hơn ở những thi ảnh giàu và đẹp: 


Rơm thơm nâng tiếng sáo diều

Mưa Ngâu nối nhịp cầu kiều trái ngang


Hoặc: 


Ngậm ngùi nhặt chiếc lá đa

Mùa Thu chở tuổi trẻ ta về Trời

     

Thế đấy. Tâm hồn Thi sĩ là một vũ trụ, hay vũ trụ đã nằm trong tâm hồn họ. Chỉ cần một va động nhỏ trong bất cứ đối thoại nào, thi hứng sẽ cất lên. Và, điều khẳng định này được nhìn rõ ở các trang viết của các tác giả. Không gì khác, đấy là gia tài. Là báu vật. Là chìa khóa cho thi nhân mở tung cánh cửa “cõi vô biên” xa rộng ngoài kia. 


Chúng ta hãy đọc, Lê Kim Hạnh, với Lắng nghe tiếng sóng,” với những câu lục bát, nhuần nhuyễn thế này:


Dù đi góc bể chân trời

Góc quê thương nhớ là nơi hướng về.

Bồi hồi gió ngược bờ đê

Lòng rưng rưng với bộn bề Xa – Sau.

...

Trăng tàn huyền hoặc đêm sâu,

Còn ta huyền hoặc bằng câu ru mình 

                                                                             

Hoặc, với Đỗ Thị Huệ, người dễ da diết, quặn se khi viết về mẹ, về cha, về nỗi nhớ nào đó.


Ai nhớ ai, làm nhạt nắng mùa đông?

Vầng mây tím cuối chiều trôi lãng đãng


Rồi:


Giữa chiều đông, ta thấy nao nao

Nghe như có tiếng ai thì thầm trong gió

Nghe như bước chân ai vội vàng trên cỏ

Nghe xạc xào, khoảng trống mênh mông.


Hoặc, với Nguyễn Thị Minh Hương trước “Ngẫu hứng mùa hoa”:


Vườn em hoa nở có mùa

Hương thơm: cũng phải nắng mưa đủ ngày.

Nhắc người yêu đến cỏ cây

Biết chờ, biết đợi tự ngày lá xanh!


Hoặc, Nguyễn Diệu Liên khi con tim nhạy cảm với nỗi bâng khuâng ngày trở “Về chốn cũ”:

Sân nhà ai đó

Hoa cúc đã tàn

Thu vàng bước vội

Đông buồn rẽ ngang


Hay, phút Nguyễn Diệu Liên cảm thấm trước chông chênh phận người trong tự cảm: 


Em bé nhỏ mong manh

Trước dòng sông dài rộng

Chông chênh hơi may mỏng

Thoảng mái chèo chơi vơi. 


Hoặc, thơ là những mảnh nhỏ lấp lánh của khoảnh khắc thoáng chợt mà Minh Yến, một nhà báo nhiều năm gắn với cuộc đời cầm bút. Thơ ở đây là phút “thăng hoa” mà “Tâm thi” gọi về thi hứng.  


Phố nhỏ bằng lăng tím ngắt 

Gió mềm se lạnh má hồng 

Nàng Bân mải chơi lâu quá 

Tháng Tư áo vẫn chưa xong! 

 


Hoặc, khi bắt gặp “Tháng Giêng”:

 

Tháng giêng sao kỳ lạ thế 

Nắng chói chen ngang mưa dầm 

Chồi non khát trong kẽ lá 

Hỏi đang là hạ hay xuân

 

Rõ ràng, thiên nhiên cảnh vật ở đây là “cái Cớ” để thi nhân gửi gắm và bày tỏ hồn mình. Thơ ở đây là “Cảnh sinh Sự. Sự sinh Cảnh ...  Rồi Cảnh và Sự sinh Tình”.  Trên mạch nguồn này, thơ Bùi Thanh Huyền khá giàu cảm xúc. Ngôn từ lung linh, cao đẹp. Những kiến văn, trải nghiệm được cô đặc và kết đọng trong thi liệu. Lợi thế này đã đem lại cho Bùi Thanh Huyền có được những trang tản văn giàu chất thơ và cái duyên trong tự sự.


Trong rất nhiều những bài thơ “chắc, vững”, Bùi Thanh Huyền có những câu thơ thật riêng, thật “cá thể hóa”. Thơ lắng sâu trong lòng người đọc. Ví như: 

  

“Mẹ ơi 

Con sợ lúc nào có một chàng trai đến đón con, 

Con sẽ nhớ người ta nhiều hơn nhớ mẹ”

      

Hoặc, với mùa thu: 


Em chạy dọc mùa thu tìm anh

Chạy tức tưởi, chạy âm thầm, trong lá rụng,

Cả yêu thương, cả tủi hờn, căm giận

Em ùa vào, em trút xuống mùa thu.


Đọc hàng trăm bài thơ trong “Búp và Hoa”, phải nói, mọi bài thơ ra đời đều từ sự đốt cháy, sự nổi loạn của con tim người viết. Cái khác nhau chăng? Là năng lượng chuyển vận của cảm xúc. Là cách tiếp cận thế giới ngoại cảnh. Là cách biểu hiện, kết cấu. Là cách lập tứ. Là kỹ xảo, ma mị ngôn từ thuộc về mỗi tài năng ...

 

Ví như, với Nguyễn Thị Toán, ngay từ buổi đầu “vào lớp”, bài thơ lớn hơn vóc dáng cô bé mới hơn mười tuổi đầu kia đã trội vượt ở sức nghĩ. Cái nghĩ thật sâu mà gợi, thế này:


Ông ơi vì sao          

Giọt nước biển quê mình mặn chát

Chẳng khác giọt mồ hôi và nước mắt  

...

Nỗi buồn hiện lên mặt ông 

nếp nhăn nhiều như mắt lưới ...


Đấy là bài thơ “Cháu hỏi ông”. Còn hôm nay, trong bài “Cảm ơn Người”, thơ của Nguyễn Thị Toán vẫn giàu cái nghĩ ấy với “cái Cảm” quyện hòa:

Khi con hoang mang không biết hướng chân trời

Không biết tự nơi nào mình tới

Không biết vì sao cuộc đời có đắng cay, khổ ải

Không biết vì ai con có mặt trên đời


Hoặc: 


Năm tháng ơi, năm tháng miệt mài trôi

Như dòng sông có bao giờ ngừng chảy

Ta đã hiểu những điều thầm lặng ấy

Trong bát ngát nắng vàng, trong sắc tím bằng lăng!


Với Bùi Thái Phúc. Với những truyện ngắn khá bộn bề chi tiết, tác giả này còn có khả năng “vĩnh cửu hóa” những đề tài thời sự. Tiêu biểu là bài thơ hay viết về  “Bóng đá”. Và, tiêu biểu là bài thơ “Nói với con” thật cảm động ở cảnh ngộ, cảnh huống: 

  

Hôm nay bố cưới vợ

Mở tiệc ngay gần nhà

Trong dập dìu tiếng nhạc

Ngoài sân là xe hoa     


Cảnh ngộ trớ trêu là thế. Nỗi đời cảm thương là thế. Nhưng, lời “Nói với con” cũng chính là lời nói với chính lòng mình. Câu thơ xa xót trong cái tĩnh, trầm. Cái tự mình an ủi:


Con vui vì có mẹ

Mẹ sống nhờ có con

...

Mong manh không dễ vỡ

Hai mảnh nhỏ linh hồn ...


Ở “Búp và Hoa” cùng với phần lớn là sáng tác thơ, mảng văn xuôi cũng khá phong phú, với sự đóng góp của các tác giả : Lã Thị Bắc Lý, Vũ Huy Thông, Trần Thu Huê, Minh Yến, Đào Thanh Bình, Trần Vân Hương, Nguyễn Nga, Trần Thị Minh Hạnh ... Trong đó có 13 tác giả vừa có sáng tác thơ và văn xuôi.


Có ít Truyện ngắn, Truyện Ký, còn hầu hết là các Tản văn với những lát cắt khá sinh động, hấp dẫn.

 

Với Tản văn. Đấy là những mảnh nhỏ lấp lánh. Từ “Canh cá rô” của Bùi Lan Anh, “Hoa Loa kèn” của Nguyễn Thúy Hằng, “Mùa hè rớt, Quà quê, Mùa trắng tinh khôi” của Bùi Thanh Huyền đến “Hoa Sen đồng Tháp Mười”, của Trần Thu Huê. Rồi, tình nghĩa Cha Mẹ của Minh Châu, Minh Hương, Bùi Thị Ngọ, Bùi Thái Phúc ... đã tạo nên cái ríu ran, cái đa thanh của nhiều giọng điệu, nhiều dáng vẻ của gương mặt người viết. 


Ở “Búp và Hoa”, các bài viết của Biên Linh, Bùi Thanh Huyền, Vũ Huy Thông, Minh Hương, Trần Thu Huê, Bùi Lan Anh, Nguyễn Nga, Trần Thị Minh Hạnh, Vân Hương ... Các tác giả này đã ghi lại nhiều kỷ niệm hồn nhiên, ấm áp và đẹp đẽ của “Lớp năng khiếu sáng tác” với tình thầy trò, bạn bầu ... Cái sinh động, phong phú, của một thời, nằm ở phía sau mỗi trang văn mà người viết nâng niu, trân trọng... 

    


Trong nhóm tác giả trên có vài ba người viết xông vào lãnh địa “Lý luận, phê bình” như Trần Huyền Tâm, Bùi Thị Biên Linh, Phạm Hồng Oanh. Nhưng, Lã Thị Bắc Lý, một Nhà giáo, Nhà nghiên cứu văn học đã có nhiều đóng góp ở các bài đăng tải trên các tờ Tạp chí nghiên cứu văn học với những phát hiện, những phẩm bình tinh tế. Các Bút ký “Hành hương về xứ Phật”, “Một thoáng Shìn Hồ”, “Quy Nhơn Du ký”... của Lã Bắc Lý cùng các trang văn xuôi được lựa chọn trong tập “Búp và Hoa” của các “nhà văn nhóm Búp” đều tươi xanh cảm xúc. Đều đạt tới “Lượng thông tin bộn bề” với một phía là “Kỹ sư tâm hồn” linh diệu. Đều vươn tới sức tạo dựng một thiên nhiên trong trẻo. Một tâm hồn cao đẹp. Một ý nghĩa thấm đẫm giá trị nhân văn ... 


Thật khó và không thể làm công việc lược tóm một cách trình tự, hay điểm xuyết cho hầu hết các Truyện ngắn, các Bút ký, các Tản văn của từng tác phẩm, của 23 tác giả, ở một bài “Tựa.” Phần khép lại lời giới thiệu về thành tựu của Văn chương “nhóm Búp” sau hơn 40 năm bước vào MÙA HOA nở rộ, tôi muốn dừng lại ở những ngôi sao đã ra đi trên quãng đường dài hơn. Họ đã tập trung hơn và làm nên bề dày hơn ở bến bờ băng vượt.  


Đấy là, Bùi Thị Biên Linh với hai tập thơ “Ý nghĩ ban mai” “Khoảng xanh miền nắng”. Rồi, tập Bút ký “Gửi lại dấu yêu,” Nữ Văn - Thi sĩ này đã giành được hai giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho một tập văn xuôi và một tập thơ vào các năm 2016 – 2018. Rồi, một Giải Nhất chùm Bút ký của Báo Sinh viên và Trung ương Đoàn trao tặng trong số 15 nghìn bài dự thi trên cả nước, đã làm nên hiện tượng chưa từng có trong lịch sử văn chương của tỉnh Bình Phước. Ghi nhận thành tựu ở cả hai chuyên ngành Văn và Thơ, một Bùi Thị Biên Linh, một gương mặt sáng giá trong cuộc đời cầm bút. Thơ và văn của Biên Linh là tiếng nói của cõi lòng mát lành, đằm thắm. 


Cùng với Biên Linh, hiện tượng Trần Huyền Tâm, cũng đáng giật mình. Trần Huyền Tâm bỗng viết nhiều, viết hay khi bước vào tuổi “tri thiên mệnh”. Trong vòng gần ba năm, Trần Huyền Tâm liên tiếp cho ra đời ba tập thơ, một tập Tản và làm Chủ biên 5 tập Văn thơ khác. Tại cuộc ra mắt 5 tập văn thơ vào dịp hè năm 2019, Trần Huyền Tâm là tác giả của ba tập: Thơ, Tản văn và một tập thơ văn, với vai trò: Chủ biên.


Mỗi tập sách của Trần Huyền Tâm đều bề thế, dày dặn. Có cảm giác, Trần Huyền Tâm đang vào “mùa sinh nở”. Đang chạm vào cái “mỏ lộ thiên” của chính hồn mình. “Thác đang chảy. Lửa đang cháy. Xoáy lốc đang dồn xô trong mắt bão.” Tôi tin, Trần Huyền Tâm đang phồn khí, phồn sinh trên con đường sáng tạo.

 

Trên mỗi trang viết, Thơ và văn xuôi của Trần Huyền Tâm “luôn nồng say, da diết. Luôn làm nên vệt đậm ở cảm thức, ở khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật. Ở sự bồi đắp niềm tin, niềm yêu thương, hòa ái. Ở nguồn chủ đạo là hướng về cái “Tịnh”, cái “Minh triết”, đời người...”. 


Xin chúc mừng Trần Huyền Tâm trước mùa màng bội thu. Với, 4 tập sáng tác và 5 tập làm Chủ biên đã ra mắt bạn đọc. 


Thật trân trọng và ngưỡng mộ tài năng và sức lao động của Trần Huyền Tâm, một tác giả có những câu thơ Lục bát, cũng thật dễ se lòng :


Nước trong mà giếng thì sâu 

Thương nhau ta nối dây gầu dài thêm.


 Hoặc


Một lần vướng lúm tiền xinh

Mấy đời ngồi gỡ cái tình đa đoan


Hoặc


Duyên tình trao gửi nơi nhau 

Cũng là vay trước trả sau thôi mà ... v.v...


Trường hợp Phạm Hồng Oanh, một tài năng sớm hình thành từ những năm vừa bước vào “Ngôi đền thiêng văn chương” của Hội. Phạm Hồng Oanh viết nhiều. In nhiều. Oanh viết khá hay cả Truyện ngắn và Thơ. Phạm Hồng Oanh đã nhiều lần giành được Giải thưởng ở các cuộc thi với các đề tài ở vùng miền, khu vực và cả nước. Năm 2018, tập thơ “Hoa nở không mùa” của Phạm Hồng Oanh đã được Giải thưởng của Liên hiệp Các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, khẳng định: Phạm Hồng Oanh, một trong đôi ba Thi sĩ xứng đáng ngôi vị hàng đầu trong đội ngũ những nhà văn đang sống và viết ở Thái Bình. 


Người đọc nhớ nhiều thơ Phạm Hồng Oanh, với những câu :

 

Tươi cái mất héo cái còn

Tôi mang muối những nỗi buồn làm dưa”. 


Hoặc: 


Gỡ xong ngày tháng vô tình

Lòng ai chừng đã nổi thành váng chua... 


Hoặc: 


Chợt gần gũi đã xa xôi

Trái tim sống được bởi nuôi nỗi buồn. 


Vân vân & vân vân ...  

        

Trưởng thành cùng lứa với Phạm Hồng Oanh, Nguyễn Thúy Hằng - Nữ Thi sĩ trẻ của Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình đã khẳng định bút lực ở cả hai mảng Văn xuôi và Thơ. Cùng với Tập Tản văn “Trăng làng vườn” và Tập thơ “Mùa đợi”, “Văn Thúy Hằng” luôn đề cao chất thi sĩ, luôn làm nên nguồn chảy êm xanh, mê mải. Có thể ví, đấy là những hạt nhỏ phù sa tươi hồng, rượi mát. Nó vừa đi vừa đắp bồi, vừa để lại sắc hương nơi bờ xa, bến lạ. 

           

 Thơ Thúy Hằng có những câu gây được ấn tượng khó quên. Ví như: 

 

“Hãy yêu như lũ tràn đầy

Mặc thuyền tan, cánh buồm gầy xác xao”. 

 

Hoặc: 

 

“Biết rằng đã khuất đò ngang

Sao còn xuống bến lội sang một mình”. 

 

Hoặc: 

Lung linh một mảnh trăng gầy

Treo lòng em nỗi đắng cay bên trời”.

 

Xin thưa. Có thể, 44 năm qua, thực tại cây cột mốc đang cắm trên chặng hành trình của “Nhóm Búp” Bùi Biên Linh, Trần Huyền Tâm, Phạm Hồng Oanh, Nguyễn Thúy Hằng mới chỉ là người đã đến trước bến bờ miền neo đậu nào đó. 

Sớm muộn, vắn dài không phải là cái lõi của văn chương. Mà cái muôn thuở của văn chương phải là, bóng hình ai, nỗi niềm ai? Sẽ còn mãi trong trở trăn, khắc khoải, trong cái đau đáu, cái ảm ảnh đời người nơi tác phẩm của họ ...       

Tôi biết, nhiều người trong nhóm Búp đang khá giàu lưng túi, văn chương nghiêng ngả chưa dễ nhường ai, như : Bùi Thanh Huyền, Nguyễn Thị Toán, Bùi Lan Anh, Bùi Thái Phúc, Phạm Minh Châu, Nguyễn Diệu Liên, Minh Hương, Đào Thanh Bình, Đỗ Thị Huệ, Phạm Lan Anh, Trần Minh Hạnh, Minh Yến... Các bạn hãy tự tin. Hãy trình làng. Hãy công bố tác phẩm của mình. Hãy làm cho “Thi đàn Nhóm Búp” sáng lên vẻ đẹp trước “một lứa bên trời,” trước tháng năm tỏa rạng. 

Thưa bạn đọc!

Năm 1495, Nhà Vua Lê Thánh Tông lập “tao đàn nhị thập bát tú.” Năm 1936 – Nhóm thơ Quy Nhơn - Bình Định gồm Quách Tấn – Hàn Mặc Tử - Yến Lan, Chế Lan Viên...

Trước đó hai năm, năm 1934, nhóm “Tự lực văn đoàn” của Khái Hưng – Nhất Linh – Thạch Lam, Tú Mỡ  ... Tất cả tổ chức ấy đều chỉ là một “nhóm Văn bút” ... họ đã ghi vào lịch sử một trường phái, một giọng điệu văn chương, với một phía đóng góp trong tiến trình phát triển lịch sử văn học nước nhà. 

Năm 1976 đến đầu năm 2020 này, tổ chức “Văn chương của Nhóm Búp” của Hội VHNT - Thái Bình khởi xướng, trong ý nghĩa lịch sử, thành tựu văn chương của nhóm Búp đang có với mấy chục đầu sách đã xuất bản. Với hàng trăm bài viết của nhiều cây bút đã in trên các báo chí. Với rất nhiều giải thưởng đã giành được ... Thành tựu này, so với các nhóm Văn Bút, trước nó, ai dám bảo rằng nhỏ? Ai dám bảo nó dễ mất bóng trước năm tháng, ngày đi ? Khi gương mặt này, tác phẩm ấy. Khi Văn bia hôm rày, ta đã và đang gửi tới mai sau ...


Đất Cảng Hải Phòng, 2020

KIM CHUÔNG