Một ngày xuân muộn của Ức Trai

Một ngày xuân muộn của Ức Trai
Cuộc đời có thăng giáng. Nhưng ngày xưa, như Lão Tử nói: "Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên". Sự biến dịch của cõi người không làm ta chóng mặt.




MỘT NGÀY XUÂN MUỘN CỦA ỨC TRAI
(Anh Vũ)


Không biết cụ Nguyễn Du vào thời đại cuộc sống trôi nhanh vùn vụt thế này có đủ điềm tĩnh mà buông lời bình thế sự: "Trải qua một cuộc bể dâu"


 


Cuộc đời có thăng giáng. Nhưng ngày xưa, như Lão Tử nói: "Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự Nhiên". Sự biến dịch của cõi người không làm ta chóng mặt. Vì thế mà Trạng Trình nhìn thế gian biến đổi, cải hoán từ vũng sâu thành đồi cao cũng qua đôi mắt rất thích thảng, không quá ngậm ngùi... 


Ngược thời gian, khi Lý Bạch: "Vung kiếm chém nước, nước vẫn chảy" thì sầu đấy nhưng chỉ dừng ở tiếng thở dài... 


Những bài thơ cổ dường như lộ diện các không gian. Thời gian dường như tĩnh tại. Nói đúng hơn nó vận động bằng một hệ kinh mạch cao năng lượng chứ không phải chỉ là nối hai mạch Nhâm Đốc nông cạn. Người xưa không thảng thốt như thời hiện đại:


"Mau với chứ, vội vàng lên với chứ"


Cho nên, đọc thơ xưa, cho ta sống chậm lại; chúng ta dù buồn hay vui cũng hòa nhập được dòng chảy tự nhiên của vũ trụ. 


Tôi lại nhớ thời ấu thơ. 


Ngoại tôi nổi tiếng là nhà có của ăn của để. Mái tranh có ba gian; những cột nhà bằng gỗ lim đen bóng; có mấy song cửa sổ mở khắp phía, bốn bề lộng gió... Nhưng nếu so với bây giờ thì nhà ấy chỉ là cái chòi dựng tạm dành cho bác canh vườn của một ông chủ đất. 


Nhà nhỏ nhưng khu vườn xanh um trước sân thì lớn. Khi tôi về ở với ngoại chừng 4, 5 tuổi thì ấn tượng nhất là giữa khu vườn nhiều thứ hoa cỏ, cây thuốc nam không tên, có một ngôi nhà sàn nhỏ xíu. Chỉ cần 4 người vào là đã chật hết chỗ. Cứ mỗi buổi tối, bên đĩa đèn dầu lạc, ngoại tôi ngồi với án thư nho nhỏ và cặm cụi với con chữ Thánh Hiền. Những đêm trăng lên, ngoại cho tôi ngồi bên cạnh, mở song cửa nhỏ để da thịt mình rười rượi làn gió mát như sương khuya. Thời ấy nghe đọc thơ cứ như được thông thiên nối hồn mình với các Đấng Thiêng Liêng. Mình mơ ước có ngày sẽ làm được những bài thơ với nét chữ rồng bay phượng múa đó.


Còn nhớ những ngày tháng ba,sau những đợt rét "bà già chết cóng" là những ngày mưa bụi bay bay trong lất phất của hương xoan thoảng nhẹ. 


Đường làng trơn lầy trơn lội. Có những lúc ngoại cho tôi vào ngôi nhà sàn nho nhỏ đầy những tấm da hổ và các đồ sơn son thếp vàng cùng các bình gốm sứ… Ngoại nói với tôi về những tích cổ gắn vào các sinh mệnh đáng yêu ấy. Và rồi, bà ngoại luộc khoai, có một "tích" nước chè xanh nóng hổi. Hai người đàn ông ngồi nhìn mưa. Rặng Xoan đối diện xanh nõn; mỗi bông hoa trắng điểm một chấm tím cứ đung đưa. Và cứ rụng xuống từng đợt nhẹ nhàng cùng phơn phớt hương hoa, trong cái lành lạnh của tiết trời …


Những hồi ức ngày xưa ấy cứ ùa về khi hôm nay được đọc thơ của Ức Trai tiên sinh.


Đúng là văn chương có thể làm bất tử một khoảnh khắc. Nó nối kết những kỷ niệm, những tâm sự riêng chung. Nó cho đứa bé năm xưa gặp lại ngoại của mình. Một người ông không tuổi! 

 

暮春即事  

* Mộ xuân tức sự 

(Chiều xuân tức sự) 


閑中盡日閉書齋,

 Nhàn trung tận nhật bế thư trai, 

(Nhàn rỗi suốt ngày đóng cửa phòng sách )


門外全無俗客來。

 Môn ngoại toàn vô tục khách lai. 

(Ngoài cửa vắng khách tục đến)


杜宇聲中春向老,

 Ðỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão, 

(Trong tiếng đỗ vũ kêu ý chừng xuân đã muộn)


一庭疏雨楝花開。

Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.

(Cả một sân hoa xoan nở dưới mưa phùn.)


** Dịch thơ:

Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn 

Khách tục không ai bén mảng gần 

Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn 

Ðầy sân mưa bụi nở hoa xoan.

(Khương Hữu Dụng) 


Trọn ngày thong thả khép phòng văn, 

Khách tục bên ngoài chẳng bén chân. 

Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn, 

Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân.

(Nhóm Đào Duy Anh) 


Buồng văn cửa đóng suốt ngày nhàn, 

Ngoài ngõ không hề khách tục sang. 

Xuân chuyển muộn dần trong tiếng cuốc, 

Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan.

(Bùi Hạnh Cẩn)


Có lẽ không cần phải tra cứu nhiều sách vở, chúng ta cũng có thể hình dung ra bài thơ của Nguyễn Trãi được sáng tác trong những ngày ở Côn Sơn để đi theo con đường ẩn cư của ông ngoại là quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán của mình. 


Ta biết rằng, sau khi đuổi giặc Minh về nước, Lê Lợi đã có những việc làm để vết nhơ trong sử sách. Ông đã trừng phạt những công thần của mình. Đau đớn thay, người đã nếm mật nằm gai, người đã trở thành linh hồn của Khởi nghĩa Lam Sơn cũng nằm trong số đó. 


Nguyễn Trãi về Côn Sơn mang một tấm lòng "tiên ưu" đau đáu với dân với nước "Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông".


Từ trước tới nay, người ta cứ đào sâu vào điều này để thấy cảm hứng các bài thơ của Nguyễn Trãi mang tâm trạng đau buồn. Hoặc có "vui cũng là vui gượng kẻo mà".


Thực ra, theo tôi, sớm sống trong vòng tay của ông ngoại là người theo trường phái Đạo Gia, Nguyễn Trãi bị ảnh hưởng tư tưởng này sâu sắc. 



Ngay sau những ngày loạn lạc, đang ngổn ngang trăm mối của một vị quân sư có trọng trách, Nguyễn Trãi đã có mơ ước nhuốm mùi Đạo: 


SAU LOẠN, VỀ CÔN SƠN CẢM TÁC 


"Xa cách mười năm chốn cổ san, 

Quay về tùng cúc đã lan man. 

Suối rừng có hẹn sao nên phụ, 

Đất bụi cúi đầu chỉ tự than. 

Vừa lại quê nhà như thấy mộng, 

May trong binh lửa vẫn tuyền thân. 

Bao giờ dưới ngọn mây về ở, 

Nước suối chè tươi ngủ thạch bàn"


Người ta thường hay đối lập Nho và Lão. Thực ra, Khổng Tử đã gọi Lão Tử là thầy. Họ đều chung trường phái Đạo Gia. Đi hết Khổng ta sẽ gặp Lão; hãy làm một người Ngũ Thường thật tốt, thì ta mới có thể tu luyện thành Chân Nhân!


Và trong quá khứ, ta thấy những người theo Đạo Gia xuất xử hoặc nhập thế rất uyển chuyển, biện chứng. Giống như "hô" thì phải có "hấp"; có hít vào thì có thở ra.


Vậy nên, chúng ta không nên lập luận: Vì Nguyễn Trãi không có điều kiện nhập thế cống hiến cho dân cho nước nên ông đành lánh đời tiêu cực. 


Sống theo Khổng hay theo Lão, thơ Nguyễn Trãi cũng hết sức chân thành. Và ông sống hết mình trong những tư tưởng đó . 


Bây giờ, ta hãy đi vào 4 câu tứ tuyệt này. 


Câu 1:


"Nhàn trung tận nhật bế thư trai, "

(Nhàn rỗi suốt ngày đóng cửa phòng sách)


Chữ "Nhàn" ở đây là rảnh rỗi, vô sự; là thong dong, yên ổn. Thường những người đi vào chữ "Vô" của Đạo Gia để nhập được vào thế giới vô vi với tâm bất động, mới có cái Nhàn an nhiên, tự tại. 


Cả một ngày sống được trong cái Nhàn là cả một thời gian nhập được vào một cảnh giới của trẻ thơ, không bị gánh nặng Danh, Lợi ,Tình của hậu thiên chi phối. Con người dưới thế gian này khổ bởi cái tâm luôn bất an. Bất cứ suy nghĩ hành vi gì cũng bị cái Tình nhúng ngập, tẩm vào trong các vi lạp vi quan nhất. 


Thay vì mở cửa, thậm chí rời nhà ra Trại để nhìn mưa xuân bay, nước sông đầy, con đò thảnh thơi yên giấc thì ở đây, Ức Trai lại thu hẹp không gian cảm xúc của mình trong thư phòng với sách vở bút nghiên. 


Ba chữ "bế thư trai" ở đây là phong bế nhốt mình lại trong phòng sách. Chữ "Trai" trong nghĩa gốc là  'Giữ trong sạch, ngăn tham dục. Ngày xưa sắp tế lễ tất kiêng rượu, kiêng thịt, ngủ nhà riêng gọi là trai giới 齋戒; hoặc "Trai nhật". Có bản dịch: "Phòng văn nhàn nhã đọc Thánh Hiền" không phải là không có lý do. Chính chữ "Trai" kia cho thấy phòng văn ấy, người đọc sách ấy đang tiếp xúc với hiền thánh. Chắc chắn không có những cuốn sách chứa đựng những điều ô trọc của đời người phàm tục, bể dâu... 


Thực ra hai chữ "nhàn trung" (trong cõi nhàn) thì mới có một hành động tương thích: bế phòng văn chứa sách Thánh Hiền để đọc suốt ngày! 


Câu hai:


 "Môn ngoại toàn vô tục khách lai"

(Ngoài cửa vắng khách tục đến )


Chữ TỤC ở đây chỉ người thường, đời thường, bình thường, bình phàm. 


Nguyễn Trãi thường dùng chữ này : 


"Vũ dư sơn sắc thanh thi nhãn, 

Lạo thoái giang quang tịnh TỤC tâm" 


雨餘山色清詩眼,

 潦退江光凈俗心 

(Sau mưa, sắc núi làm trong trẻo mắt nhà thơ, 

Nước lụt rút, ánh sáng nước sông sạch lòng trần tục)


Không hiểu sao các bản dịch thơ lại coi chữ này với hàm nghĩa xấu, muốn bài xích:


Khách tục bên ngoài chẳng bén chân. 


Hoặc mức độ mạnh hơn:


Khách tục không ai bén mảng gần.


Như vậy, câu trên "bế thư trai" tức là đóng cửa phòng cùng hiền thánh thì câu dưới lại cho thấy thế giới của phòng thư trai ấy là một cảnh giới khác biệt với bên ngoài. Hoàn toàn không có một người thường nào trong cõi bể dâu quay trở lại nơi đây. Chính chữ Tục này đã xác nhận cho ta chủ thể trữ tình, người đang ở trong "thư trai" của mình là một Tiên Ông, một người tu luyện, vượt khỏi thói đời đa đoan của chữ "Tình". Như vậy, đâu cần phải tìm nơi nước Nhược non Bồng; đâu phải cưỡi Hạc Vàng theo mây trắng ngàn năm mới lên được cõi Tiên. 



Chỉ cần giữ cho mình cái tâm thái vô vi của chữ Nhàn thì mình đã về được tới quả vị giác ngộ cao của mình. Ai là người tu luyện và được chứng thực những trải nghiệm tu luyện trong Đạo Gia thì mới biết đây là hạnh phúc đích thực, không hề có tính ẩn dụ, giấu giếm những niềm đau người thường.


Ta có thể thấy niềm vui này tinh khiết đến nhường nào trong bài  "Tức Sự":


1/ Hiên, song nho nhỏ; mái le te

2/ Quan như ẩn sỹ chốn sơn khê

3/ Sông xanh, sóng biếc, buông câu thả

4/ Ung dung đọc sách dưới sum suê

5/ Mưa  tạnh, hơi sương luồn cửa sổ 

6/ Gió tung, tuyết múa rộn sân, hè

7/ Bên song, an giấc không trần lụy

8/ Tâm nhàn tự đến cõi vô vi

(Thái Quang Vinh dịch) 


Câu 3:


"Ðỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão"

(Trong tiếng đỗ vũ kêu ý chừng xuân đã muộn )


Ở đây có một điển tích thường xuất hiện trong văn học phương Đông. Đó là loài chim Đỗ Vũ. Theo wikipedia thì sách "Sưu thần ký" kể rằng Đỗ Vũ là tên một vị vua nước Thục thời Chiến Quốc. Ông có tính hoang dâm vô độ nên dưới thời ông tại vị chính sự nước Thục không ổn định. Đỗ Vũ nhân nhà Chu suy yếu bèn tự xưng đế hiệu tức Thục Vọng Đế (蜀望帝) Ông từng thông dâm với phu nhân của vị tướng quốc lúc ấy là Biết Linh (鳖灵) và bị lộ tẩy. Vì thẹn quá, ông bèn nhường ngôi cho vị tướng quốc này. Tuy nhiên sau khi nắm trong tay quyền lực thì Biết Linh ngược đãi Đỗ Vũ khiến ông phải hậm hực mà bỏ nước ra đi. Khi ông chết linh hồn hóa thành một loài chim suốt ngày chỉ kêu "quốc, quốc". Người ta bảo đấy là Thục Đế nhớ nước nên mới kêu như vậy. Dân gian người Việt chúng ta đặt tên cho giống chim đó là chim Cuốc.


Trong văn học cổ điển người ta thường dùng tích Đỗ Vũ (hoặc Đỗ Quyên,Tử Quy) để nói nên việc nhớ nhung quê hương đất nước khi phải đi phiêu bạt nơi đất khách quê người. Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:


 "Khúc đâu êm ái xuân tình, 

Ây hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên" 


là lấy điển tích này.


Đến thời điểm đầu mùa Hạ cuối mùa Xuân thì loài chim này bắt đầu kêu chủ yếu vào những đêm trăng mờ tĩnh mịch, giọng kêu nghe thảm thiết bi ai gợi cho lữ khách tha phương động lòng nhớ cố hương, nhớ kỷ niệm quá khứ. 


Tất cả những điều này của điển cố dễ gợi cho ta về tâm sự nhớ thương buồn bã với hiện cảnh của tổ quốc, của nhân dân. Càng dễ suy diễn hơn là vì tác giả của bài thơ luôn mang tâm sự "tiên ưu" như vậy! 


Điều này dường như không băn khoăn khi ta đọc "Cuốc kêu cảm hứng" của Nguyễn Khuyến:


"Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ, 

Ấy hồn Thục đế thác bao giờ? 

Năm canh máu chảy đêm hè vắng, 

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ. 

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi, 

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ? 

Thâu đêm ròng rã kêu ai đó? 

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ."


Còn trong bài thơ của Nguyễn Trãi thì tôi thấy cái nghĩa thực nổi trội. Đây là tiếng kêu của một loài chim báo hiệu sự chuyển mùa: Xuân đã cuối và Hạ đã sang. Quy luật thường hằng của tự nhiên vốn vậy. 


Có phải vì tiếc Xuân mà Nguyễn Trãi nghe tiếng Tử Quy kêu? 


Với tâm Nhàn của một Đạo Sĩ thì bất cứ ngoại giới nào cũng chẳng làm cho cái Tâm ấy bất định lung lay. Xuân đi thì đã có Hạ về. Nhận thức được cái trôi chảy của thời gian ấy trong tâm Nhàn và lẽ uyên áo của Lão Trang, tiếng Cuốc chỉ là tiếng thời gian chuyển mùa mà thôi!


Tôi có đọc được đâu đây một đoạn văn: "Sự tuần hoàn của vạn vật trên thế giới này kỳ thực đều là có quy luật. Trong cuộc sống cũng vậy, có rất nhiều sự việc vốn thế nào thì sẽ là thế ấy. Nó không bị ràng buộc và thay đổi theo mục đích của con người. Giống như, hoa sẽ không bởi vì con người thích mà luôn luôn nở, ánh trăng cũng không bởi vì con người bất mãn mà vắng bóng."


Câu chuyện Thiền sư đời Đường Dược Sơn Duy Nghiễm đánh thức ngộ tính cho đệ tử khá độc đáo. Ông chỉ vào cây và nói: “Các con nói xem, cái cây này khô héo mới tốt hay là xanh tươi mới tốt?”. Đệ tử trả lời ra sao Thầy cũng chẳng vừa lòng. Bởi ông cho rằng: xanh tốt cũng sẽ mất và khô héo cũng sẽ thành quá khứ. Và rồi, Ông khen người đệ tử khác khi cậu ta nói: “Khô héo thì để nó khô héo, mà tươi tốt thì nên để nó tươi tốt!”. Và đây là lời dạy của Ông: "Bất kể sự tình gì đều nên là để cho nó tự nhiên, đừng chấp trước, đừng cố chấp. Chỉ có vậy tâm ta mới được an nhiên, mới có thể vượt lên lẽ thường tình của thế nhân!”.


Ta đừng nên lấy logic của "tục nhân, thường nhân", của người thường để hiểu một cảnh giới của người theo Đạo.


Rất nhiều người nên  tìm hiểu thêm về Nguyễn Trãi trên khía cạnh này. Tôi cho rằng, đây là một hướng cần hiểu Đạo để tiếp xúc với tâm hồn vi diệu của Ức Trai. 


Cái độc đáo ở bài thơ này là nhà thơ tự khép "thư trai" của mình nhưng thế giới bên ngoài vẫn ùa vào được tâm hồn của Nguyễn. Cảm nhận tự nhiên để tâm vô vi như nhiên hơn chứ không phải những giày vò như lửa bỏng... Có chăng, câu chuyện Đỗ Vũ hoang dâm gợi cho người ta một cái gì phàm tục, đáng thương của con người lầy lội, lõm bõm trong chữ Tình đầy mê muội. Đó là giá trị không bền, thậm chí như một chiếc gậy bổng hát của Thiền Tông gõ vào đầu người tu luyện! 


Nguyễn Trãi không nói:


"Đỗ Vũ thanh trung, Xuân nhật khứ." (Trong tiếng kêu của chim Đỗ Vũ, ngày xuân đang đi) mà ông có cách nói rất lạ "Xuân hướng lão" (Xuân hướng về sự già nua).


Dưới góc độ của người tu luyện hướng về Đạo Đức và sự tịnh Không của tâm hồn thì phải chăng ngụ ý: Những kẻ hoang dâm, bại hoại đạo đức đang hướng về sự già nua để rồi "bệnh tử"?


Đó là vấn đề nhân sinh; còn với người đang nhập vào thế giới Chân Nhân thì tiếng Cuốc ấy chỉ là thanh âm để cảm nhận dòng thời gian thường biến để định lại cái Tâm mình bất biến... 


Nhà sư Huyền Quang có viết "Xuân nhật tức sự " (Ngày xuân tâm sự):


"Chầm chậm nàng Xuân dệt gấm hoa

Hoàng Ly hót dưới Tử  Kinh hoa.

Nỗi lòng Xuân đó sao thương quá!

Dâng hết Xuân thì, chẳng nói ra." 


Cảm nhận Xuân đang dâng hiến cho đời khiến bài thơ lan tỏa một năng lượng Từ Bi của nhà Phật... 


Ta thử đọc bài thơ "Trời mùa xuân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm:


 "Khí xuân ấm áp ngập không gian,

 Vận chuyển, thiên nhiên, chẳng phải bàn 

 Hơi ấm lâu đài mây tỏa bóng,  

Nắng soi xiêm áo gió ru đàn. 

 Dạt dào sinh khí vui muôn vật, 

 Phóng khoáng huân phong ấm vạn dân…"


Vẻ đẹp của cảnh xuân, của tâm hồn cởi mở lạc quan làm cho bài thơ ấm nóng đầy sinh khí. 


Nhưng 4 câu thơ của Nguyễn Trãi có cái vi diệu của dòng thời gian trôi chảy. Nguyễn đã chọn thời điểm muộn của Xuân để thấy được cái sớm của Hè. Đây là thời gian giao mùa mà các nhà thơ Mới sau này khai thác; coi như một khám phá của con người thời đại mới :


"Gió rét khua lau dưới gậm cầu,

Đường về xóm lạnh bước qua mau

Ngõ hoang đã nở dăm màu bướm. 

Là lúc đôi mùa đưa tiễn nhau"

(Trần Huyền Trân)


Câu 4:


Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.

(Cả một sân hoa xoan nở dưới mưa phùn.)


Ta rất dễ liên tưởng tới  tứ thơ của Mãn Giác thiền sư:


"Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một nhành mai"


Phải chăng Nguyễn Trãi đang thay các số hạng đồng dạng cho một công thức:


Chớ có nghĩ rằng xuân đang già nua

Tất cả sân mưa xuân đang bay và hoa xuân đang nở đầy.. 


Tôi không nghĩ như vậy. Xuân hết là kết thúc một sự an bài tuần hoàn của Tạo Hóa. Hè đến là một sự an bài khác. Mỗi mùa đều có sức sống riêng vẻ đẹp riêng. Nếu có tâm hồn con trẻ của người tu luyện theo Đạo thì tất cả đều là món quà hạnh phúc mà Tạo Hóa cho chúng ta. 


Cảnh tùy tâm sinh. Tâm Vô thì sự biển dịch nào cũng là Thường tình. Không vồ vập, cũng chẳng cần luyến hoa tiếc ngọc làm gì... 


Như vậy, dù đóng cửa làm một khách tiên trong thư trai của mình nhưng nhà thơ đã cảm nhận được rất nhiều thế giới xuân của ngoài kia. Âm thanh của xuân từ tiếng Cuốc kêu từ xa; cảnh sắc của xuân qua màn mưa bụi và những bông hoa xoan nở đầy trên cao cùng những hạt mưa nhuần. Chúng ta cũng không quên Nguyễn Trãi đã cẩn thận ghi chú dưới bài thơ: “Sách Nhĩ nhã nói cây xoan tháng ba nở hoa thơm phức cả sân”.


Thì ra thế! Tất cả đầu dây mối nhợ để cho Ức Trai cảm nhận mọi sự kiện ngay lập tức (tức sự) chính là từ khứu giác. Cái mùi hoa xoan không dễ ai cũng cảm nhận được. Bởi nó phất phơ như có như không; như thoảng, như thoáng rất mơ hồ...


Vì thế, ngồi trong phòng mở trí tuệ để nhận hương tư tưởng của sách chữ, Nguyễn Trãi có sự đồng hưởng khi tiếp xúc với hương xoan..


Ôi, hoa xoan. Thứ hoa dân dã ấy đã đi vào thơ của Ức Trai từ hàng thế kỷ. Nó vẫn mới đến hôm nay!


Nhà thơ Xuân Quỳnh thời hiện đại đã viết trong “Mùa hoa xoan nở”: 


“Tháng ba về xuân dần hơn một nửa

 Ngõ nhà mình tim tím những nhành xoan

Cơn mưa phùn chiều dạo qua ngang cửa

Gió đu cành, hoa tím rụng đầy sân".


Văn học Trung Đại khi nói tới hoa người ta đã có những công thức ước lệ. Đó là Lan, Cúc, Mai, Đào chứ loài hoa dân dã như xoan dường như vắng bóng... 


Phải có tình yêu quê hương như máu thịt Ức Trai mới đưa những chùm xoan thoáng hương vào thư trai của mình được như vậy! 


Tôi muốn trích một đoạn tản văn viết về hoa Xoan  của Thúy Hằng để cho thấy Ức Trai dung dị và cao khiết đến chừng nào. Ông quan ấy như ẩn sỹ. Và ẩn sĩ ấy đang sống với hương xoan của người dân lam lũ:


"Xoan mang vẻ đẹp tự nhiên, thuần khiết, mộc mạc và dung dị như người quê, như hồn quê. Xoan nhả vào không gian mênh mông làng quê một mùi hương thoang thoảng, dìu dịu, nhè nhẹ. Nó không ngàn ngạt như hoa sữa, cũng không nồng xức như hoa bưởi mà man mác như gợi một điều gì đó đã xa.


...Không hiểu sao cứ mỗi khi nhìn hoa xoan ngơ ngác tím ngoài vườn, trong lòng lại trào lên một nỗi buồn mênh mang thầm lặng. Mùa hoa xoan đồng nghĩa với mùa của mưa phùn, gió lạnh dầm dề hết ngày này qua ngày khác. Đường làng lầy lội trơn trượt, lũ trẻ con đi học với cái bụng lép kẹp, manh áo phong phanh nên cái đói cái rét càng thấm vào gan ruột. Người dân quê tôi mỗi khi cái Tết đi qua là cái lo ập tới bởi bao nhiêu cố gắng gom góp đã dồn vào những ngày đầu năm. Tháng hai nhìn ra ngoài đồng lúa bắt đầu leo heo bén rễ, đậu đỗ mới nảy mầm, trong nhà cong gạo đã cạn, thúng khoai đã vơi lòng ai chẳng rối bời lo lắng. Ngoài vườn rặng xoan cứ mặc nhiên trút hoa tím tái một góc trời. Và muỗi, muỗi hoa xoan bay ra nhiều vô kể, tưởng chừng mỗi con muỗi là được nở ra từ một nụ hoa xoan. Bà và mẹ đội mưa dầm, lội trong bùn đất trộn lẫn hoa xoan tất tả ngược xuôi kiếm miếng ăn cho cháu con trong những ngày giáp hạt. Vầng trăng đầu tháng mắc lại cổng đình như chiếc liềm mong mỏi chờ vụ gặt tháng năm."...


Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của Nguyễn Trãi đã ca ngợi Nguyễn Trãi như sau: 


“Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông Tiên ở trong tòa Ngọc. Cái tài làm hay, làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ…” 


Trước đây khi đọc những lời này, tôi cứ tưởng là ngôn ngữ ca tụng ước lệ.


Đọc bài thơ "Mộ Xuân tức sự" tôi hiểu thêm về những khía cạnh Đạo Gia trong con người có tâm hồn phong phú của Ức Trai . 


Để bổ sung cho quan điểm này, tôi muốn chúng ta đọc vài bài thơ bị ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Đạo Gia trong tác phẩm của ông (những chữ đặc biệt tôi có ý nhấn mạnh):


THƠ VIẾT CHƠI 


Sống bằng sách vở bấy lâu nay,

Bằng cả đất trời với gió mây.

Trúc mọc đủ dày che khách TỤC.

Nhà cửa không hề có bụi dây.

Bến câu cá lạnh, thuyền buông mái.

Ngoài hiên HẠC múa, mảnh trăng gầy.

Không mất tiền mua, đời sướng thật,

Được ngắm núi sông suốt cả ngày.


THƠ ĐỀ CHƠI 


An nhàn, gặp hứng cứ ngâm nga.

Thoát TỤC, phong lưu sống ở nhà.

Lớp lớp núi chồng như ngọc bích.

Nghìn ô nước sáng phía xa xa.

Hoa nở ngoài vườn như tranh gấm.

Chim hót trong rừng tựa sáo ca.

Đưa mắt nhìn quanh toàn cảnh đẹp.

Người đời thử hỏi có bằng ta?


ĐỀ TRANH "VÂN OA" CỦA Ẩn Sĩ Họ Trình 


Khách quý gặp nhau, đàn suốt ngày.

Được về quê cũ, thật vui thay.

Trăng soi trên thác, rừng đầy trúc.

Đỉnh sành hương bốc, gió trên cây.

Lòng TRẦN  muốn rửa, trà pha đặc.

Gọi người thức dậy, có chim bay.

Ngày dài, tựa ghế, quên trò chuyện.

Ai kẻ vô tình, người hay mây?



La Vinh