Tập thơ "Chùa Keo"

Tập thơ "Chùa Keo"
Chùa Keo nằm trên đất thuộc xã Duy nhất, huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình, có tên chữ là Thần Quang Tự, được xây dựng từ 1630 đến năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê. Nhưng, lịch sử của ngôi chùa lại có bề dày đến hơn chín thế kỷ. Theo “Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục,” năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự.
Chùa Keo nằm trên đất thuộc xã Duy nhất, huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình, có tên chữ là Thần Quang Tự, được xây dựng từ 1630 đến năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê. Nhưng, lịch sử của ngôi chùa lại có bề dày đến hơn chín thế kỷ. 
 
Theo “Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục,” năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. 
                   
Qua năm tháng biến thiên, năm 1611, trận lũ lớn sông Hồng đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa. Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.



Chùa Keo có quy mô kiến trúc trên một khu đất khoảng 58.000m². Hiện còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Từ cột cờ bằng gỗ chò thẳng tắp cao 25 m đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm rồng chầu (thế kỷ 16). Rồi, chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau. Trong cùng là tòa gác chuông, nhà tổ và khu tăng xá.
            
Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thời hậu Lê. Được dựng trên một nền gạch xây vuông vắn, gác chuông cao 11,04 m gồm 3 tầng mái, kết cấu bằng những con sơn chồng lên nhau. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng ngậm, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. 



Tầng một treo khánh đá 1,20 m và chuông đồng cao 1,30 m, đường kính 1m đúc vào thời Lê Hy Tông (1686); hai tầng trên treo chuông nhỏ cao 0,62m, đường kính 0,69 m đúc vào năm 1796.

Đứng soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng đãng, chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những điều huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ. Theo sách Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu, Thiền sư Không Lộ vốn họ Dương, sinh ra trong một gia đình ngư phủ, xuất gia theo Thiền sư Lôi Hà Trạch.



Tương truyền rằng từ khi đắc đạo, Thiền sư Không Lộ có khả năng bay trên không, đi trên mặt nước và thuần phục được rắn, hổ. Truyền thuyết còn kể rằng trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng này nay còn lưu giữ trong hậu cung quanh năm khóa kín cửa.

Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một người hội chủ và bốn viên chấp sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh. 
 
Đến thăm chùa, khách có thể nhìn thấy những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như một bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.

Toàn bộ khu thờ Phật của Chùa Keo có gần 100 pho tượng. Pho tượng Tuyết Sơn hay còn gọi là Thích Ca Mâu Ni có niên đại khoảng 400 năm. Phía ngoài có một giếng nước. Thành giếng xếp bằng 36 cối đá thủng đã dùng giã gạo nuôi thợ xây chùa. 
 
Hội chùa Keo thường diễn ra vào ngày 4 Tết âm lịch, từ 13 đến 15-9 âm lịch. Tại hội chùa Keo, sau khi đã có những nghi lễ như mọi hội chùa khác, thì diễn ra trò chơi kéo nứa lấy lửa, nấu xôi, nấu chè và nấu cơm chay để mang cúng Thánh. Trải qua gần 400 năm tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình. 
 
Mấy trăm năm qua, trước thắng cảnh riêng biệt của chùa Keo, nhiều du khách, nhiều văn thi sĩ đã để lại những trang viết về vẻ đẹp độc đáo của ngôi chùa. Năm 1986, Hội Văn học Nghệ thật Thái Bình liên kết với Phòng Văn hóa Thông tin huyện Vũ Thư đã xuất bản tập thơ “Chùa Keo” do Nhà thơ Kim Chuông, Nhà nghiên cứu văn học dân gian Phạm Đức Duật biên tập xuất bản và phát hành lần đầu tiên với trên một vạn cuốn.
 
Để lưu giữ giá trị tinh thần về vùng danh thắng ở một miền châu thổ sông Hồng, lần này, chúng tôi cho in tập THƠ CHÙA KEO (đã được bổ sung, nhưng có thể do sưu tầm, tập hợp, chưa đầy đủ các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước đã viết, giới thiệu về chùa Keo trên các báo chí), song, Ban Biên tập sẽ tiếp tục hoàn thiện dần ở các lần xuất bản sau này.


 
Vậy trân trọng giới thiệu cùng công chúng bạn đọc.