Chú đưa thư

Chú đưa thư
Thời @ nối gần bao miền đất, có thể gửi tia nắng ban mai của nơi này đến cho nơi kia, đổ một cơn mưa đầu mùa hạ đến một miền khô khát mong chờ.Tất cả đủ đầy trong thông tin và gần gũi trong cảm xúc… Sao bỗng dưng lại nhớ đến những phong thư ngày xưa, những cánh thư được bọc trong phong bì và gửi qua những trạm bưu điện.

 


Thời @ nối gần bao miền đất, có thể gửi tia nắng ban mai của nơi này đến cho nơi kia, đổ một cơn mưa đầu mùa hạ đến một miền khô khát mong chờ.Tất cả đủ đầy trong thông tin và gần gũi trong cảm xúc… Sao bỗng dưng lại nhớ đến những phong thư ngày xưa, những cánh thư được bọc trong phong bì và gửi qua những trạm bưu điện. Vẫn có gì đó rưng rưng, vỡ òa khi luống cuống đón phong thư từ tay người đưa thư và vội vã đến run rẩy bóc phong bì.Có lẽ vì chờ đợi. Vì mong ngóng. Vì hồi hộp. Vì chút lo âu cho một khoảng cách quá xa, và thời gian để đến quá dài.Và bao nhiêu trục trặc trên đường: thất lạc, nhầm lẫn, có khi là bão gió…Trao vào tay người một phong thư đôi khi nhàu nát, nét mực nhòe đi đến mức phải đoán chữ, người đưa thư ái ngại phân bua: “Tôi cũng đã cố kẹp nó vào giữa cuốn sách dày, mà nó vẫn không thẳng thắn ra được. Đường xa quá!”. Nào ai nỡ trách móc gì đâu người đưa thư tận tâm ấy! Chỉ thương phong thư, như một con ngựa thồ, lầm lũi qua đèo qua núi, qua sông dài, bể rộng…để đặt vào tay người những dòng nhắn gửi thiết tha của chủ nó.


Tuổi trẻ của trước những năm 90 không thể không gắn bó với một người đưa thư. Ở làng quê, đó còn là một hình ảnh đậm nét nhất trong chuỗi những ký ức. Bọn mình không gọi tên, mà chỉ gọi đơn giản: chú đưa thư. Người đưa thư ở làng quê ngày ấy thường là một chú bộ đội phục viên. Trai tráng đi ra trận. Chú bộ đội phục viên đôi khi không phải là người làng. Và thường là thương binh thì mới được phục viên. Chú đưa thư ở làng mình ngày ấy bị thương vào sọ não, làm ảnh hưởng đến thính giác. “Nhưng chú nghe được tất cả, thậm chí còn rõ ràng hơn nhiều người khác ấy chứ!”- Lũ trẻ con trong làng quả quyết.Vì đã có lúc vô tình chú đứng trước cổng vườn bà, nghiêng nghiêng đầu rất lâu nghe con chim hót, sau đó chú huýt sáo miệng đúng như tiếng chim ấy,đến nỗi con chim đang hót bỗng im bặt, nghiêng cổ đứng nghe, đến nỗi bà đang nấu trong bếp, phải dụi bếp lửa,lật đật bước ra ngoài, ngó mãi lên cành cây nơi có con chim chiều nào cũng hót, đôi con mắt hấp háy nắng, hay là khói bếp, mà giọng vui: “Ô hay, con chim hôm nay hót lâu ghê!” Có lần chúng mình dùng hết can đảm, tò mò hỏi: “ Chú nghe được hết mọi thứ à? Nghe bằng gì vậy?”. Chú gật đầu cười: “Bằng mắt, và bằng cái này”- chú đặt tay lên ngực trái, trẻ con ai cũng biết, ở đó có một trái tim đập phập phồng.


Chú đưa thư không phải người làng, nên chú chẳng thuộc dòng họ nào, chi nào trong làng, chú là của chung tất cả. Họ nào giỗ Tổ cũng mời chú đến, đội nào liên hoan cũng muốn để phần chú. Nhiều chị đẹp lắm, yêu chú, nhưng không dám có ý định lấy chú làm chồng, không ai định chiếm riêng chú cho mình. Chú là của cả làng. Trẻ con trong ngõ ngày nào cũng được đợi chú: tờ báo Nhân dân cho bố, tờ báo Văn nghệ cho mẹ, tờ Thiếu niên tiền phong vào mỗi thứ Năm cho mình. Bắt đầu là tiếng chuông long coong, long coong…bao giờ cũng vậy. Giữa trưa hè nắng đổ, mọi vật thiêm thiếp say nắng, đến tiếng côn trùng cũng chỉ ri rỉ không ra âm thanh, tiếng chuông xe đạp rộn rã đánh thức tất cả. Chú ào đến như tiếng chuông, rồi ra đi như tiếng chuông dứt, một lúc lâu lâu mới lại nghe thấy tiếng chuông vọng đến từ một xóm nhỏ rất xa. Không hiểu sao, dù thư gửi đến cho ai thì người đầu tiên chạy ra nhận cũng là trẻ con.Chúng tranh nhau chạy, chúng túm áo nhau lại để vượt lên trước, chúng nhao nhao giơ những cánh tay đen nhẻm về phía có tiếng chú, để mong được là đứa may mắn chộp được phong thư từ tay chú. Giành giật thế thôi, để rồi ngay sau đó mang thư vào cho ông bà, cô chú, ba mẹ, những lá thư chẳng mấy liên quan đến chúng, thậm chí có khi người ta không mảy may nhắc đến chúng.Trẻ con thích phân phát niềm vui. Về điểm này thì chú đưa thư giống bọn trẻ.Trông kìa, một cái xe đạp “Phượng hoàng” màu xanh nước biển, luôn là nước biển vẩn đục vì dính bụi đường, vắt ngang ba-ga xe đạp là hai cái túi vải bạt nặng trĩu, căng phồng giấy, một cái túi bạt nữa treo trước ghi-đông xe, bộ quần áo quân phục bạc màu, cái mũ bộ đội bao giờ cũng đội lệch. (Vì sao mũ toàn bị đội lệch?- bọn trẻ con tò mò, - vì chú hơi nghễnh ngãng, nghe gì cũng nghiêng nghiêng cái đầu, muốn hứng mọi âm thanh - bọn trẻ con phán đoán). Toát lên trên tất cả những thứ ấy là niềm vui. Niềm vui làm chú lúc nào cũng xộc xệch: bước chân tất bật, dáng nhảy lên, nhảy xuống yên xe thoăn thoắt, bàn tay vội vã…lục tìm từ dưới đáy những túi vải bạt những phong thư mỏng tanh, hoặc dày cộp.


Vội vã thế, nhưng bao giờ chú cũng đứng lặng đôi ba phút ngắm những người khác vui, niềm vui của những người nhận được thư. Khi cơn trào dâng qua đi, mọi người ngẩng lên tìm chú, để nói một câu cảm ơn, hay một lời chào, thì chú đã đi được một đoạn xa. Và bà bao giờ cũng là người ca cẩm: “Chúng mày tệ thật! Chẳng đứa nào nhớ mà mời chú bát nước chè xanh!”. Thật thà mà nhớ, chưa lần nào chú kịp uống nước, trừ một lần. Đó là khi giữa trưa, bỗng nhiên mưa bóng mây. Mưa không lâu nhưng mưa lớn lắm, trở tay không kịp. Nhìn thấy chú đang đạp xe giữa đồng không mông quạnh, chẳng có nơi nào để trú. Chú nhảy vội xuống xe, vắt người nằm ngang ba-ga, bươn bả che cho kín hai túi bạt đựng thư và báo. Mưa trút trên lưng chú, áo quần ướt sũng như người ta vừa ngụp dưới sông lên. Cơn mưa ngớt, chú phóng xe vào nhà mình, vội vã mở túi bạt  kiểm tra xem thư từ có bị ướt không, còn bà thì lật đật vào trong buồng, lục tìm áo của bố mình đưa cho chú mặc. Bà vừa xoa dầu cho chú, vừa xót xa như chỗ nào trên người chú cũng sắp bị cảm lạnh. Hôm ấy, chú kịp ngồi uống bát nước chè nóng.


Trẻ con trong xóm, hầu như đứa nào cũng có một chuyện vui với chú. Mình nhớ những buổi sáng thứ Năm chờ đợi báo Thiếu niên Tiền phong, chờ đến sốt ruột mà phải giấu nỗi bồn chồn. Các chú ở trên Hội Văn Nghệ báo là tháng này in bài thơ của mình. Đợi từ khi nhận tin mà ngượng không dám hỏi mỗi lần chú đưa thư đến. Cho đến một hôm, chú dừng trước cổng, gọi đích danh mình, nheo nheo mắt cười: “Này, ra làm quen với thằng bạn cùng tên này!”. Tờ báo mình chờ đợi đã ở trên tay, bài thơ in trên trang nhất, địa chỉ đúng nhà mình, chỉ cái tên thiếu mất chữ “Thị”, mà sao bức ảnh minh họa…một cậu con trai. Ngỡ ngàng và lo lắng… Chú cười xòa, ngón tay vung vẩy đôi bím tóc của mình, nói: “Ai bảo làm rơi chữ “Thị”! Thấy chữ “Thị” quý chưa! Con gái thì đừng bao giờ quên mình là “Thị” nhé! Rồi lên xe phóng đi, mang theo chút vui lâng lâng của mình. Như là câu nói đùa thôi, mà kỳ lạ, bao nhiêu năm trời trôi qua, mỗi lần viết tên mình, bằng tiếng ta, hay tiếng tây, khai báo ở nhà băng, hay nơi biên thùy, cửa khẩu, đôi khi mình chợt chậm nét viết, nhớ đến nao lòng, câu nói, dáng người xưa.


Nhưng chẳng phải lúc nào chú cũng được ào đến như cơn gió lành. Những lá thư lúc vui, lúc buồn. Mình bất ngờ thấy chú bên hàng rào nhà bác Tính, đứng lặng lẽ đến nỗi có cảm giác chiều ngưng lại trên đôi vai chú. Phong thư vần võ trong tay.Thư báo tin anh Tâm, người con trai của bác vừa hy sinh ở biên giới Tây Nam. Bác Tính đổ gục trong tay bà con làng xóm, ai cũng cố xoa bớt nỗi đau, muốn đùm bọc, nâng đỡ … Chỉ mình nhìn thấy có một người gò lưng đạp xe ngược gió, nỗi buồn nhiều như gió thổi bên sông. Bóng người ấy nhỏ dần, rồi chìm vào chiều nặng trĩu, chiều tắt nắng trên đồng.


Mà có lần chú mạo muội tạo niềm vui.


Cô Dung là cô giáo cấp hai, không phải người làng, cô ở trọ nhà bà. Cô có người yêu là chú Chính, nghe nói yêu nhau lắm, vì thấy chú rất chăm viết thư, đóng quân ở nơi nào chú cũng gửi thư về, tháng nào cũng thư đều đặn. Chú viết gì, mà khi đọc thư cô hay cười khúc khích, bà hỏi, thì cô đỏ mặt, lắc đầu: “Con không nói được đâu, bà ơi!” Bà không hỏi thêm gì nữa, quay ra cười mủm mỉm. Thêm tuần này nữa là 3 tháng không thấy thư chú Chính. Cô Dung đầu tiên thì bực bội, ngúng nguẩy vào ra, sau thì lo, rồi suốt ruột điên lên, rồi buồn thiu thỉu. Ngày nào cũng hỏi chú đưa thư, chú cười giòn: “Mai nhá, nhất định ngày mai sẽ có!”. Những “ngày mai” lặp lại như thế. Cô đã thôi không hỏi mỗi ngày, chỉ cúi mặt sâu hơn xuống sàng gạo bà vừa sàng sảy sạch, bới tung, bới tóe tìm hạt thóc sót. Rồi chịu không được, cô ra cổng nhà, khi nghe thấy tiếng chuông xe quen thuộc, lóng ngóng vờ buộc lại dậu mùng tơi, mắt không nhìn chú đưa thư đi qua. Thì bỗng nghe chú gọi: “Cô giáo có thư nhé!”. Cô Dung luống cuống xé bì thư soàn soạt, mặt đỏ ửng, mở trang thư: “Em xa thương!..”. Nghe tiếng cô hốt hoảng: “Nhầm rồi, bà ơi, không phải thư của con!” Nước mắt ào ra, thất vọng: “Anh ấy không bao giờ viết câu đầu tiên như thế! Nét chữ cũng không phải của anh ấy!”-“Thì cứ từ từ đọc hết xem sao!”. Cô Dung làm theo lời bà khuyên. Cuối cùng thì nhoẻn cười: “Anh ấy nhờ bạn viết, anh ấy bị thương, đang nằm điều trị, cũng sắp khỏi rồi!”. “Đã bảo mà, đợi mãi rồi cũng đến, mong mãi rồi cũng thấy!”-“Thật thế ư bà?!” cô Dung ôm bà thật chặt chia niềm vui. Nửa tháng sau lại một bức thư như thế. Cô Dung áp lá thư vào ngực, không biết có phải vì hôm đó cô mặc cái áo trắng tinh không, mà có cảm giác cô sắp thành cánh diều nhẹ, sắp bay tít lên không trung giữa một trời hạnh phúc! Cô Dung vui, vì miễn là anh anh ấy còn sống, thương phế thế nào cô cũng chịu được. Chú đưa thư vui ái ngại. Có một ngày cô Dung nhận được một thư nữa, lại hốt hoảng kêu lên: “Sao thế này bà ơi! Thư anh ấy, nét chữ anh ấy: “Anh bị lạc đơn vị suốt mấy tháng qua, biết em lo mà không có cách nào gửi thư báo tin cho em được. Bây giờ anh đã tìm được về đơn vị, anh sẽ viết đều đặn cho em, sẽ…em, bù lại những ngày…”. Cô Dung lại đỏ mặt không đọc được tiếp nữa. Cô vui lắm, nhưng cô băn khoăn: “Thế thì những lá thư kia từ đâu bà nhỉ?”. Bà nói, không biết thật hay đùa: “Bụt sai người Hiền xuống mang tin cho con, để cho con bớt lo, bớt mong!”. Đến lượt trẻ con băn khoăn: có phải chú đưa thư là người hiền của Bụt thật không?


Trẻ con hỏi: “Sao tự nhiên chú lại thích nghề đưa thư?”- “Để hôm nào đẹp trời sẽ trả lời nhé! Giờ đang bận!”. Khác với người lớn, trẻ con thường nhớ rất dai, và nhắc đến món nợ luôn mồm. Thế là vào một ngày chẳng đẹp trời tí nào, một ngày tự nhiên mưa gió sậm xụt, chú đưa thư ngồi kể chuyện.


… “Ngày ấy chú đóng quân trong rừng Trường Sơn. Cứ mỗi ngày lại đi sâu vào phía trong. Ngày đi, đêm nghỉ. Ngày bận rộn, vất vả không nói làm gì, cứ đêm nằm xuống, thì nhớ nhà, nhớ người yêu lắm! Tụi bay biết nhớ người yêu là thế nào không? (Tụi con gái bắt đầu thấy ngường ngượng trên mặt, tụi con trai khoái chí hùa vào bảo chú nói nhanh đi!). Là thế này này: cảm thấy trong người như là bị sốt, nóng lắm, nóng ran toàn thân, môi run lắm, phải dùng răng cắn chặt môi lại, không định khóc, mà nước mắt cứ trào ra, nước mắt cũng nóng rực, nhưng mà những ngón tay thì không cử động đựợc, tê dại không cảm giác! (Bọn trẻ cố căng mắt nhìn vào khoảng không, cố hình dung xem có cảnh nào trong phim giống như thế? Chịu, không nhớ có cảnh phim nào, chúng bảo: Được rồi, cứ cho là rất nhớ, nhớ lắm… Tiếp theo sao?”- “ Tiếp theo là mong thư, đợi thư người yêu. Thỉnh thoảng vừa đặt chân đến một trạm, đã thấy có thư đợi sẵn, sướng điên lên. Mệt mỏi biến sạch. Ngày hôm sau bước chân lên đèo, cứ như lướt trên sóng. Thế mà có lần vừa vượt qua một vụ suýt rơi xống vực, đến trạm, nghe người quen nói mình có thư, nhưng thư còn nằm lại trạm trước, người giao liên vừa mới đến trạm sau một ngày rừng, phải ngủ lại đó một đêm, mai mới lên đường chuyển thư đến trạm này.(Các cậu hình dung tình thế thế nào rồi ấy gì? -Sáng mai lại đi tiếp, còn lá thư thì cứ đuổi theo ở phía sau! Kỷ luật quân đội thì không kể, các cậu cũng biết!- Chú bỗng coi tất cả trẻ con thành người bạn lớn, để giãi bày! Điều này làm bọn trẻ vô cùng cảm kích, chúng ngồi sát lại bên chú hơn, có vẻ như rất thông cảm, và sẵn sàng giúp đỡ). Đêm ấy không trăng, nhưng nhiều sao. Mình ngửa mặt lên trời thấy có một vì sao cứ nhấp nháy thật lạ, như là chỉ vẫy gọi với mỗi mình mình. Mắt người yêu mình đẹp lắm, mình cứ ngỡ chính là ngôi sao ấy.Mình lên gặp thủ trưởng xin được trở lại trạm nhận thư, -“Đó là lá thư báo tin bệnh tình của mẹ tôi, Ngày mai lại ra đi, không biết tôi có nhận đựợc tin nữa không, tôi nóng lòng không thể ngủ đêm nay được.”- Lý do bịa đặt đã được người thủ trưởng tốt bụng chấp thuận, với giao hẹn: sáng mai tất cả sẽ đi vào phía trong, không ai có quyền tụt lại!” Mình giậm gót dày thật mạnh, thể hiện quyết tâm chưa từng thấy. Thủ trưởng yên lòng. Mình lao vào đêm, lộn ngược trở lại con đường vừa đi ban ngày.


Đi một mình thấy đường hun hút hơn, rừng mông lung hơn. Nhưng mà đôi chân muốn chạy.Chưa bao giờ chạy hăng say như thế, chỉ cần biết ở trên đầu có một ngôi sao rất sáng, cũng đang líu ríu chạy theo, thế là cảm thấy không một mình, không cô đơn. Mình tính giờ, để kịp quay lại trạm ngay trước khi trời sáng, nghĩa là không được nghỉ, chỉ cầm được lá thư là “Đằng sau, quay!”, chạy lộn trở lại! Ơn Trời, không bị lạc, đến nơi, đêm bắt đầu tàn. Hăm hở bước vào chỗ người quen. Cậu ấy ngái ngủ, than phiền: “Lạc đơn vị à? Đơn vị anh đi khỏi đây từ sáng hôm qua!”. Không có nhiều thời gian để giải thích, nhưng cuối cùng, người ngái ngủ ấy cũng hiểu :”Ờ, thư của cậu hả? Có đấy, mấy anh em còn cầm lên, cầm xuống bàn bạc. Có thư đấy, chắc chắn là có! Ớ, nhưng mà, chuyển đi rồi! –“ Đi đâu?”- “ Đến trạm tiếp theo, chỗ đơn vị cậu dừng chân đêm nay!” –“Ai chuyển thư?”-“ Cậu giao liên! Lẽ ra cậu ấy nghỉ lại đây đêm nay, mai đi tiếp, nhưng nghe tin ngay sáng mai đơn vị cậu phải di chuyển, cậu ấy cắt rừng, đi luôn từ chiều!” Mình quay ngoắt trở lại chỉ kịp chào mỗi câu, làm ông ngái ngủ tỉnh ngủ hẳn, đứng như trời trồng, nhìn theo.


Khỏi phải nói, các cậu cũng hiểu được mình đã ôm chặt cậu giao liên thế nào! Lần đầu tiên mình đã không bóc thư ngay, mà ôm ấp nó trong tay, ý nghĩ không về nó, mà nghĩ về cái cậu thanh niên trai trẻ đang đứng trước mình, gương mặt thư sinh cỡ sinh viên năm thứ hai là cùng. Trời chưa sáng hẳn, mà nụ cười cậu ấy hệt như rạng đông.-“ Em thấy tên người gửi là tên con gái, địa chỉ là khoa văn, trường Đại học sư phạm- trường em- em biết ngay là người yêu của lính! Em ưu tiên hàng đầu!” Một nụ cười rạng rỡ vương vất chút trẻ thơ, làm mình nghĩ cậu ấy là thiên thần, chỉ có thể là thiên thần!


Bọn trẻ ngồi ngẩn ra suy nghĩ, những người đưa thư đều giống như nhau, đều là người Hiền của Bụt!


- Ô, thế cô sinh viên khoa văn đâu rồi? - Lũ trẻ sốt ruột hiếu kỳ hỏi dồn. - “Cô ấy đi lấy chồng rồi, chồng cô ấy cũng rất tốt, họ sống hạnh phúc!”-“ Nhưng… tại sao lại đi lấy người khác!” – “Mình muốn thế, lấy người khác, cô ấy sẽ được sung sướng hơn!”. Chú cười, dịu dàng, ấm áp, nụ cười không phải là không buồn.

 

Tôi hay nghĩ về quê nhà vào những khoảng thời gian yên tĩnh nhất. Nhớ về những vườn chuối, bờ tre, những buổi sáng trong lành có tiếng chim lích tích, những buổi chiều trầm đục, có khói bếp bay lên…Nhớ về những người đã đi qua tuổi thơ tôi, có cả chú đưa thư trong số đó.Tôi vẫn thường hình dung thấy khi tôi đã xa nhà sang Liên xô học, lá thư đầu tiên gửi về cho mẹ một chiều chớm thu. Bao nhiêu nhớ nhung, hồi tưởng trong phong thư nặng trĩu. Hẳn chú đưa thư đã đứng lặng trước cổng nhà tôi, nhìn phong thư trong tay, như nhận ra một người quen, một người thân thuộc lắm, một cô bé thường chạy ùa ra nhận thư, một cô bé có đôi bím tóc ngắn, buộc vểnh lên, rồi có đôi dải đuôi sam dài, thả dịu dàng trước ngực…Cô bé ấy giờ đã thành cô sinh viên, xa nhà, xa mẹ, xa những kỷ niệm tuổi thơ… Mẹ chưa về, cửa im lìm chiếc khóa, không thấy cô bé ngày xưa chạy ra đón nữa, chỉ mấy bông mướp vàng ngơ ngẩn rụng góc sân.


Tôi bỗng thèm khát được chạy ngay về mảnh sân con ấy, được nhìn một mái đầu đã ngả bạc, cái miệng cười thì tươi mà mắt nhìn rười rượi.Tôi thèm được gửi đến chú một lá thư, một trong ngàn vạn lá thư chú đã từng phân phát. Nhưng bể người mênh mông, tìm đâu ra cánh chim trời! Có lẽ tôi đã trở nên vô tâm, và lãng quên nhiều thứ!...


Kishinhop, 1992

Bùi Thanh Huyền