Đảo

Đảo
Ngày mới đến Đảo, đôi khi rảnh rỗi tôi bảo taxi chở đi vòng vòng. Hôm ấy đi về phía bắc Đảo. Còn hoang sơ, vắng vẻ lắm. Một bên đường là bờ biển. Mặt nước cứ trải dài, sóng lấp lóa dưới ánh mặt trời hướng tây. Một bên là rừng, cây thẳng, lá xanh hiền hòa, chẳng mấy gợi cảm giác âm u bí hiểm của rừng rậm.

 


(Đảo Ngọc Phú Quốc)


Ngày mới đến Đảo, đôi khi rảnh rỗi tôi bảo taxi chở đi vòng vòng. Hôm ấy đi về phía bắc Đảo. Còn hoang sơ, vắng vẻ lắm. Một bên đường là bờ biển. Mặt nước cứ trải dài, sóng lấp lóa dưới ánh mặt trời hướng tây. Một bên là rừng, cây thẳng, lá xanh hiền hòa, chẳng mấy gợi cảm giác âm u bí hiểm của rừng rậm. Đảo hiền lành, đảo an nhiên giữa bốn bề sóng vỗ. Nghe nói ở đây chưa bao giờ có bão. Dù rằng hàng năm TV, đài báo thông tin từng cơn bão từ số 1 đến số 13..., thì với Đảo, bão vẫn là chỉ ở đâu đó, bất quá là vài cơn mưa lớn, là gió ầm ầm một hồi, rồi lại thấy biển xanh vô tư, cây gội nước mưa xanh nõn. Xe chạy vô định, cứ gặp đường thì đi. Tôi thích như vậy. Đến khi đi đến một chỗ mà phía trước không thấy đường, tôi ngó ngang, ngó dọc, thấy bên trái mờ mờ một lối rẽ, tôi bảo: “Rẽ vào đây!”. Chú bé Taxi trẻ măng ái ngại: “Cũng chỉ là ra bờ biển thôi, chả có gì đâu cô ơi”. Tôi bảo: “Cứ đi thôi!”. Hóa ra không chỉ có biển. Trên bãi cát lẫn rất nhiều lá dương rụng, có một mái lều lợp bằng lá dừa, bốn bề trống hoắc. Tôi dừng xe bước vào. Mãi mới thấy chị chủ nhà bước tới, hỏi muốn uống gì? Thì ra đó là một cái quán ăn uống tuềnh toàng, có mấy chiếc bàn gỗ mộc, một cái tủ lạnh chứa cả thức ăn và thức uống.


Tôi nhìn thấy có chiếc thuyền nhỏ màu xanh đậu sát mép nước, từ xa nhìn nó xinh xắn như một chiếc lá. Tôi hỏi có thể đi thuyền một lúc không? Chị bảo có dịch vụ đi thuyền thả lưới bắt cá, nhưng giờ cũng muộn rồi, sợ chả bắt được cá lúc này. Tôi mừng quá, bảo cứ ra khơi, cá bắt được hay không cũng không không quan trọng. Chị ái ngại đưa mắt về phía có hai bóng người bên bờ nước. Họ đang lúi húi bên đống lưới lằng nhằng. Họ ngẩng lên nhìn tôi, vội vàng vơ đống lưới, mang theo, dắt tôi bước xuống thuyền. Ra khơi là cảm giác tôi ấp ủ thích thú từ lâu. Gió ngàn ngạt rẽ tóc tung bay về phía sau, nước ăm ắp rẽ mũi thuyền thành hai vệt trắng xóa. Ánh hoàng hôn đổ từng chùm ánh vàng xuống mặt nước. Tôi lao vun vút trong chùm ánh sáng đó, nó vỡ tung thành từng mảnh, từng mảnh nhỏ, lấp lánh như pha lê. Trong khối màu rực rỡ đó, tôi nhìn thấy người đàn ông lái thuyền đẹp như một bức tượng hy lạp. Anh không cao lớn, nhưng rắn rỏi, da đỏ au, vầng trán mịn, sống mũi thanh tú kiểu mũi Hy lạp, và nhất là đôi mắt: nó đẹp bởi nó sáng, như sao, bởi ánh mắt rất thần thái, nó làm tôi bị cuốn hút. Anh nhìn niềm vui thích không giấu nổi của tôi với ánh mắt rạng ngời hạnh phúc. Tôi cảm thấy được chia vui, và vì thế rất có thiện cảm với ánh mắt đó. Chúng tôi đã thả lưới xuống biển, đã gõ vào mạn thuyền ầm ĩ để gọi cá đến. Và khi trăng lên, chúng tôi bắt đầu kéo lưới lên. Náo nức, chờ mong, hy vọng. Tâm trạng chung của người kéo lưới. Nhưng những đoạn lưới cứ lần lượt hiện lên khỏi mặt nước, những mắt lưới dưới ánh trăng như những con mắt, cười cười. Mắt lưới rỗng, chả có chú cá nào mắc vào. Cho đến khi đã gần đến đoạn cuối, bỗng lấp lánh dưới ánh trăng bao nhiêu mảnh bạc: cá, và tôm, và cua, và mực…Tôi náo nức gỡ chúng từ mắt lưới, nâng chúng lên ngắm dưới ánh trăng, bàn tay thực sự chạm được vào thiên nhiên, ngón tay râm ran niềm vui sướng.


Phía mũi thuyền sau, người phụ nữ đầu đội bóng đèn, tay cầm chiếc đèn lớn, soi đường cho người đàn ông lái thuyền. Chị điềm đạm, không nói câu nào, chỉ cười, dõi theo mọi niềm vui của tôi với sự đồng cảm bình tĩnh. Mà sao dễ thương quá thôi, mà sao cứ khiến tôi rạo rực muốn biết về chị.


Số cá chúng tôi gỡ được lưng lưng cái rổ con. Nhà hàng sẽ làm tất cả các món có thể từ số cá tôm mà tôi bắt được. Một bữa tối thịnh soạn có một không hai khi tôi thấy trên bàn bày la liệt cá hấp, cá nướng, cá kho tộ, tôm, mực, cua và sò…Chỉ có mình tôi ngồi trước bàn ăn rộng mênh mông. Không ai ăn cùng tôi. Họ chỉ đi tới đi lui chăm sóc tôi, lặng lẽ nhìn tôi thích thú. Còn anh, anh ngồi một góc tối trong quán, chơi bản Hotel California bằng một cây guitar rất bình thường, (không phải cây guitar 12 dây của Glenn Frey !). Tôi vừa nhấm nháp hương vị biển đảo, vừa nghe tiếng sóng vỗ cùng vi vút hàng dương, mà chợt nghĩ: khi lòng bình yên, người ta có thể ngồi ở biển này mà hát về một vùng trời khác, ngắm cái thanh bình, chân thật của một hoàng hôn đảo hoang sơ, mà nghĩ về cái hào nhoáng, xa hoa, giả tạo ở một nơi, một thời điểm mà con người cảm thấy tinh thần muốn chạy thoát khỏi cầm tù vật chất. Lời bài hát mang cho tôi ý nghĩ đó. Tôi thoáng lặng lẽ trong đôi chút. Và điều đó không thoát khỏi ánh mắt quan sát của anh.


Tôi thực lòng khen ngợi tài nấu ăn của chị phụ nữ đi thuyền ban chiều, hỏi chị có phải là người ở Đảo và chị phụ việc ở đây lâu chưa? Chị nói,  chị sống ở đất liền, thỉnh thoảng ra đây thôi. Tôi hỏi: thế chồng chị, cũng là người đất liền? Chị bảo : Đó là bạn của tôi, anh ấy từng sống ở Mỹ, giờ về sống trên bờ biển này. Tôi đưa mắt nhìn cái quán ăn bốn bề trống trải, chẳng có dấu hiệu nào của một nơi ở được qua đêm, vì thậm chí một cái giường cũng không thấy. Chị bảo, chúng tôi ăn ngủ ở đây. Ăn bằng cá bắt được, và rau trồng được. Đêm ngủ ngay tại phòng này, kéo tấm rèm quây lại thành một góc, vác cái chõng tre lên, vậy là ngủ cho đến khi mặt trời mọc. Ngừng một lúc chị tiếp: chúng tôi ở đây giúp anh chị chủ nhà tiếp khách, chở thuyền cho họ trải nghiệm tự bắt cá bằng lưới… thỉnh thoảng chúng tôi đi du lịch, xuyên Việt, bằng xe honda. Anh ấy không muốn về Mỹ nữa.


Tôi bắt đầu cảm thấy cuốn hút. Có gì đó không chỉ là mấy lời chị kể.


Tôi ra về khi đêm đã khuya với ý định trong đầu sẽ trở lại bãi biển hoang sơ này càng sớm càng tốt.


Lần tôi trở lại, không thấy đôi người ấy. Cảm giác hẫng hụt, nhơ nhớ. Tôi hỏi chị chủ nhà, chị nói đôi đó vừa phóng honda ra Hà Giang để xem ruộng bậc thang vào mùa lúa chín. Nhưng ra đến Thanh Hóa, nghe nói Hà Nội có bão, họ dừng lại chờ, tan bão sẽ đi tiếp. Họ vẫn đi như thế, một chiếc honda, bạn ngồi sau và guitar đeo trên lưng. Dừng ở đâu, cắm lều ngủ đó, tự nấu ăn, chỉ rau và cá.
 


(Ảnh: tác giả Bùi Thanh Huyền tại Đảo Ngọc - Phú Quốc)


Tôi quay lại lần nữa. Trưa ở biển vắng vẻ. Chỉ có nắng chảy tràn trên biển. Im ắng bình an. Tôi nhìn trước nhìn sau không thấy ai, liền tiến về phía đám cây dương phía xa. Nhìn thấy hai chiếc võng chụm đầu buộc cùng một thân cây dương. Có hai người trên võng thiêm thiếp ngủ. Trên mặt, họ che nắng bằng hai cuốn sách mở. Hai cuốn sách cùng tên: “ The Da Vinci Code” (của Dan Brown). Cả hai cùng đọc và cùng ngủ thiếp đi. Tôi đứng lặng ngắm dáng nằm bình yên của họ, ngắm đôi cây dương bình lặng xanh, và mặt biển êm đềm ngay dưới chân. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thế giới bình yên thế và hạnh phúc giản dị như thế. Khi lòng ta bình yên thì dẫu Mật mã Da Vinci, cuốn sách đặt ra bao nhiêu bí ẩn, bao điều đòi nghĩ suy, giải đáp và chấp nhận, vẫn không quấy quả được những giờ phút bình yên, dịu dàng, ngọt ngào như thế.


Tôi lặng lẽ bước đi để không đánh thức những tĩnh tại trong họ, không đánh động giây phút đáng quý đó.


Chị chủ quán kể rằng anh ấy đã sống ở Mỹ suốt thời tuổi trẻ. Từng quần loe tóc dài nhảy Rock & Roll, từng nhà lầu xe hơi, từng đi khắp đó đây với những đêm ngủ trong lâu đài, những tòa băng đá, từng phóng xe mui trần chạy men đại vực Grand Canyon, từng những canh bạc Vegas…Anh là kiến trúc sư xây dựng với những nghiên cứu được đánh giá cao ở Mỹ về vấn đề kết cấu vật liệu xây dựng siêu bền, siêu nhẹ….


Rồi anh bỏ lại tất cả ở Mỹ, về quê, làm bạn với cô bạn gái phổ thông khi xưa. Họ chưa từng yêu nhau ngày đó, nhưng giờ gặp lại, họ thấy như hiểu nhau từ kiếp trước. Họ sống với nhau bằng cuộc sống họ muốn và thích như cách họ hình dung. Họ đọc chung sách, nhưng chả mấy khi bàn luận về sách. Hình như họ cùng hiểu như nhau, ý nghĩ giống nhau, chả cần nói ra nữa. (Chị chủ quán cười, hình như vừa tin, vừa không dám nghĩ mình đã hiểu hết những con người ấy).


Lần gặp gần đây nhất là khi tôi dắt mấy người bạn ra bờ biển còn hoang sơ này, cho các bạn trải nghiệm đi thuyền thả lưới. Lần này nhiều người, chúng tôi đi thuyền lớn hơn với người lái và người phụ lái chuyên nghiệp. Mà lạ lắm, tôi cứ cảm thấy thiêu thiếu, trống trải. Dù hôm đó hoàng hôn lộng lẫy. Ánh hoàng hôn vẫn thả từng chùm ánh sáng vàng bao bọc chúng tôi. Gió vẫn lồng lộng và nước ăm ắp reo vui. Tôi đứng ở mạn thuyền nhìn về phía bờ. Bỗng xa xa dưới chân núi, có đôi bóng người, Họ dắt tay nhau. Họ đi về phía những tảng đá xếp thành những bàn, những ghế, những giường, những chõng. Ở đâu họ cũng có thể dừng chân. Nơi nào thấy bình yên trong lòng, họ trú lại. Bao nhiêu chiếc tổ êm ấm như vậy họ đã tự xây lên cho mình, từ những cọng cỏ khô, từ những sợi rơm, sơi tơ, từ những gì giản dị nhất, họ nhặt nhạnh trên con đường bước chân đi qua.


Họ tìm được nơi an trú, trong yêu thương, bình yên.


Hòn Đảo nhỏ này bỗng trở nên thân quý và cuốn hút biết bao đối với tôi. Nó bình yên một cách bình dị!


Viết ở Đảo Ngọc Phú Quốc. 

Bùi Thanh Huyền