Đêm đậu bến Tần Hoài (tiếp theo)

Đêm đậu bến Tần Hoài (tiếp theo)
Triều đại nhà Đường được xem là thời kỳ hoàng kim của lịch sử Trung Quốc, thời kỳ mà Trung Quốc là thiên triều hùng mạnh và lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới. Đỉnh cao của Triều đại nhà Đường thuộc thời kỳ giữa “Thịnh triều Trinh Quán” (Hoàng đế Đường Thái Tông) và “Thịnh triều Khai Nguyên” (Hoàng đế Đường Nhân Tông).


ĐÊM ĐẬU BẾN TẦN HOÀI (Tiếp theo)

(Tác giả: La Vinh)

 

Triều đại nhà Đường được xem là thời kỳ hoàng kim của lịch sử Trung Quốc, thời kỳ mà Trung Quốc là thiên triều hùng mạnh và lãnh thổ rộng lớn nhất thế giới. Đỉnh cao của Triều đại nhà Đường thuộc thời kỳ giữa “Thịnh triều Trinh Quán” (Hoàng đế Đường Thái Tông) và “Thịnh triều Khai Nguyên” (Hoàng đế Đường Nhân Tông). Thời kỳ ấy, Trung Quốc được hưởng một nền thái bình thịnh trị trong tất cả lĩnh vực kinh tế xã hội, văn chương và nghệ thuật, được hậu thế tôn vinh là “Thịnh Đường Khí Tượng”.


Nhắc tới Tần Hoài, tôi lại nhớ tới mảnh đất Tần Xuyên mầu mỡ mà vua cha đã phong cho Lý Thế Dân được làm Tần Vương  bởi những công huân hiển hách của vị hoàng đế vĩ đại tương lai Đường Thái Tôn.

Có lẽ cả hai. Trong thời loạn, hoạn quan và lũ xu nịnh nhiều như dòi bọ hỏi kiếm ai ra người tri âm? Và cũng trong thời Mạt tận của nhà Đường ngồi riêng một góc trong quán rượu không phải để say mà để uống những đắng cay thực tại; để mơ về thời Thịnh Thế Trinh Quán; để thấy cái tương lai treo trên sợi chỉ mành của một vương triều tàn mạt! 

Câu thơ thứ nhất có 2 chữ Lung nối kết "khói nước" cùng "mặt nước lạnh" trên sông Tần Hoài; kết "ánh trăng" và "bãi cát" thành từng cặp nhất thể. Tất cả trở thành mông lung, mờ ảo. Tất cả cứ chập chờn, mang mang trong con mắt của một người say: YÊN LUNG HÀN THỦY, NGUYỆT LUNG SA. (LUNG 籠: Có bộ "Trúc " ở phía trên, có nghĩa là "Cái Lồng". Nghĩa phát sinh là "bao trùm, phủ trùm". LUNG cũng có nghĩa là "mông lung, mờ ảo").

Cảnh vật được nhìn ở tầm gần. Có lẽ lúc con thuyền chuyển bánh lái ghé vào một cái bến có tửu" gia": YÊN LUNG HÀN THỦY. Nhà thơ thấy những lớp khói sóng (yên) đang phủ trùm không cho ai thấy mặt nước lạnh của sông.

Và, có lẽ khi đã ngồi trong quán rượu, họ Đỗ mới có giây phút yên tĩnh để nhìn không gian rộng hơn, thoáng hơn: NGUYỆT LUNG SA

Trăng in lên bãi cát nhuộm cát thành tấm lụa óng dài và rộng. Bờ sông bên này dường như chỉ có một con thuyền cột vào bên quán rượu; có trăng trong; có đêm lạnh; có "Yên ba giang thượng sử nhân sầu". Nỗi buồn thời thế và nỗi buồn thấy đời người như bóng ảnh đã làm cho cái nhìn về thời gian dường như lộn ngược. 

Bởi, đáng lẽ ra: "Ghé vào một bến của sông Tần Hoài" nhà thơ có dịp nhìn "Khói sóng không bay cao mà trắng xóa ,mờ mịt che làn nước xanh lạnh ngắt dưới ánh trăng". Sau đó, đến ngồi trong quán rượu, thi nhân mới có điều kiện để nhìn trăng lồng ánh sáng cho bãi cát. 

Câu thứ nhất tả cảnh. Câu thứ 2 kể sự kiện: DẠ BẠC TẦN HOÀI, CẬN TỬU GIA

Với tâm trạng buồn của kẻ "cô phàm nhân" trong đêm lạnh, trăng dầu dãi thì ghé quán rượu đế quên, để xóa đi nỗi sầu là lựa chọn cần thiết. 

Hai câu cuối cũng thay đổi trật tự của logic. 

Đáng lẽ nói: Cách sông, ta nghe tiếng hát, tiếng ca xướng rất rộn rã của bài "Hậu Đình hoa" từ bờ bên kia. Cô gái (các cô gái) kỹ nữ ấy không biết nỗi hận mất nước hay sao?

Ở đây, Đỗ Mục lại viết: THƯƠNG NỮ BẤT TRI VONG QUỐC HẬN (Những ca kỹ bán mình không biết nỗi hận mất nước) 

Sau đó mới cho ta biết cái nguyên nhân nào của câu thơ này: CÁCH GIANG, DO XƯỚNG "HẬU ĐÌNH HOA" (Cách con sông, phía bờ bên kia còn rộn rã cùng nhau hát xướng khúc "Hậu Đình hoa"!)

[@ Giải thích một số từ:

*Thương nữ  商女 : Một cách gọi riêng để chỉ các cô Ca Kỷ, Ca Nhi, các Ả Đào, Kỷ Nữ.

* Do:  Còn, mà còn, vẫn còn. ◇Nguyễn Du 阮攸: Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long 白頭猶得見昇龍 (Thăng Long 昇龍) Đầu bạc rồi còn được thấy Thăng Long.

* Xướng :Hát, ca. ◎Như: xướng ca 唱歌 ca hát, hợp xướng 合唱 hợp ca. Kêu, gọi to. ◎Như: xướng danh 唱名 gọi tên.Chỉ chung thi từ, ca khúc. ◎Như: tuyệt xướng 絕唱, tiểu xướng 小唱.]


Những người ca kỹ này đang sống trong một đất nước dù loạn lạc, suy tàn nhưng là một đất nước của triều nhà Đường. Họ đang hát bài ca của  Trần Hậu chủ thời Nam Bắc triều đã xảy ra 200 năm rồi! Lớp hậu sinh này làm sao mà biết được những gì đã xảy ra trong lịch sử đã dằng dặc trôi qua lâu như vậy? Với lại, thân phận dưới đáy xã hội; dùng tấm thân và khả năng ca vũ để kiếm cơm qua ngày của kiếp "thương nữ" phù du, ta làm sao đòi hỏi họ phải có tấm lòng ưu thời mẫn thế của đấng trượng phu?

Đỗ Mục đang trách những người ca kỷ ấy không biết đến nỗi hận mất nước. Chính ông cũng biết cái trách ấy là không đúng đối tượng. Thực ra, ông hiểu cái họa mất nước chỉ tính từng ngày. Cả triều đình mù quáng, bất tài lo ăn chơi cũng "hồn nhiên" như những cô Thương Nữ kia mà thôi! Kịch bản của thời Hậu Trần lại được đưa lên sân khấu với những người thủ vai như vậy! Lịch sử lại là vòng quay. Đáng buồn là bao nhiêu kẻ thức nhận được như họ Đỗ đều không sao cản lại. Chỉ đi theo con bệnh mà thở dài. 

Cũng cần nói một chút về vấn đề âm nhạc của người xưa. Thực ra ba yếu tố: thơ, nhạc và vũ điệu luôn đồng nhất. Tương truyền, khi vua Thuấn sai người diễn tấu nhạc vũ “Đại thiều”, sau khi diễn tấu xong 9 chương, có phượng hoàng đến chầu bái, nhảy múa, trăm loài thú cũng nhảy múa theo. 

Hơn 2000 năm sau, Khổng Tử đánh giá rằng: “Nhạc “Đại thiều” tận thiện tận mỹ vậy.

Người xưa đã đánh giá “Nhạc là để cho con người vui vẻ. Nhưng vui vẻ mà người quân tử có được là vì dùng nhạc để đồng hóa với Đại Đạo, vui vẻ mà kẻ tiểu nhân có được là dùng nhạc để thỏa mãn ham muốn của con người. Dùng thiên đạo để tiết chế tư dục, thì sẽ có được niềm vui chân chính mà không mê loạn; Phóng túng tư dục mà xa rời thiên đạo, thì sẽ mê mất tâm trí sẽ không có được niềm vui chân chính.” 

“Nghe âm thanh gian tà, khí tà loạn trên thân người sẽ bị đánh thức, tà khí thành khí hậu, nhạc dâm dật sẽ trở thành thời thượng. Nghe âm thanh thuần chính, chính khí trên thân người sẽ hưởng ứng với nhạc, chính khí thành khí hậu, hòa nhạc sẽ thịnh hành…” 

Trần Hậu chủ xướng nhạc dâm loạn mà trao nước cho nhà Tùy. 

Nhưng, nhà Tùy lại theo vết xe đổ ấy. Người ta kể rằng, một hôm nghe xong bản nhạc trong cung Tùy, nhạc công Vạn Bảo Thường nói: “Tiếng nhạc này bạo ngược lại bi ai, báo trước thiên hại sắp tới sẽ tự tàn sát lẫn nhau, hơn nữa con người cũng sẽ bị giết gần hết.” 

Kết cục của nhà Tùy còn thê thảm hơn Hậu Chủ: Tùy Dạng Đế bị giết chết ở Giang Đô!

Âm nhạc, ca vũ, ca từ với người xưa là điềm báo nhạy cảm nhất về sự thịnh hay suy; tồn hay vong của một đất nước. Đỗ Mục nghe rộn ràng như một dàn hợp xướng hát khúc "Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa",  một  khúc hát  được gọi là "Vong Quốc Chi Âm 亡國之音 " (Khúc Âm nhạc mất nước) làm sao ông không khỏi bàng hoàng?

Nhà Tùy diệt nhà Trần vì an chơi xa xỉ; nhà Đường diệt Tùy cũng là thay Trời hành Đạo. Bởi mức độ ăn chơi của thời Hậu Tùy gấp trăm ngàn lần Hậu Chủ! 

Và thật oái oăm với lịch sử. Đến lượt Vãn Đường lại tin dùng Quan Hoạn, lại Mê gái đẹp, tiếng hát hay ...Lại bóc lột nhân dân thỏa dục tính ích kỷ, trụy lạc. 

Khúc "Hậu Đình Hoa" được rất nhiều các nhà thơ cùng thời hoặc sau thời của Đỗ Mục nhắc nhở như một bài học giáo huấn của lịch sử .

Lưu Vũ Tích ngậm ngùi khi nghĩ tới cố đô của 6 triều đại đi qua. Ông cho rằng, tất cả được mất là do con người. Và cảnh cáo về bài học mất nước của Hậu chủ là thói ăn chơi vô độ

 @#KIM LĂNG HOÀI CỔ ( Lưu Vũ Tích, Trung Đường) 

Việc hưng phế là do người tạo 

Chứ núi sông diện mạo trơ trơ 

"Hậu đình hoa" khúc thoảng đưa 

Điệu buồn u ám người nghe não lòng

( Nguyễn Minh dịch) 

"Tiểu Lý" (là tên người đời sau gọi Lý Thương Ẩn để phân biệt "Đại Lý" là Lý Bạch) sống cùng thời với Đỗ Mục đi qua cung điện tan hoang của nhà Tùy đã từng ăn chơi một thửa. Ông  mô tả cảnh đổ nát tiêu sơ của chốn xưa đang dành cho ma quỷ trú ngụ. Bầy đom đóm và con quạ già chính là hậu thân của những kẻ làm vua ăn chơi mà quên dân tình lầm than khốn khổ. Những câu hỏi mỉa mai: Nếu không có Đường Thái Tông thì sự ăn chơi không biết sẽ còn tăng trưởng bao nhiêu lần nữa? Hóa ra trên cõi thế, cả hai là kẻ thù; người chính kẻ tà. Nhưng gặp nhau chín suối lại cùng hát "Hậu Đình hoa"!

#*#CUNG ĐIỆN NHÀ TÙY (Lý Thương Ẩn)

Suối xanh cung điện khoá yên hà 

Toan lấy Vô thành dựng đế gia 

Ví chẳng ấn vàng về kẻ khác 

Ắt là buồm gấm đến miền xa 

Giờ đây cỏ mục không đom đóm 

Muôn thuở cành dương có quạ già 

Dưới đất gặp vua Trần Hậu chủ 

Há nên hỏi khúc "Hậu đình hoa"?

(Trần Trọng San dịch) 

Hứa Hồn trong hai bài thơ liên hoàn tứ tuyệt cũng không quên nhắc đến khúc "Hậu Đình hoa".

Đối lập cảnh tan hoang: Nước vắng chủ với dư âm khúc hát; giặc vào thành mà vua còn đi trong mộng với gái đẹp, nhạc hay… đã cho thấy một sự mỉa mai kín đáo từ chuyện xưa lan tới chuyện nay.

#@NỖI OÁN CUNG VUA TRẦN (Hứa Hồn)

Bài 1

Giang Thành gió ấm, ngày lên muộn, 

Nay khóc người xưa, chuyện chửa nhoà. 

Cung khuyết cỏ đầy, nước vắng chủ, 

Vì ai ngân khúc "Hậu đình hoa" ?!!


Bài 2

Đất hùng núi hiểm nước thâm sâu, 

Chẳng thể quân Tuỳ đến Thạch Đầu. 

Nhạc trổi Hậu Đình Hoa dậy khúc, 

Lầu Dương với chúa vui đêm thâu !!

(Lâm Trung Phú)

Vương An Thạch là nhà cải cách thời Tống (sau nhà Đường). Sau bao lần lên voi xuống chó, họ Vương đã thấy bóng ma Trần Hậu Chủ và thanh âm không cưỡng lại được của khúc "Hậu Đình hoa" đang ám vào vua quan nhà Tống. Và " Hậu Đình hoa " ám ảnh cả chính mình! 

Từ khúc hát này mà nhà thơ coi câu chuyện vinh nhục của lịch sử; sự khinh bạc của thói đời là cái quan ải phải trải qua. Bắt buộc phải qua!

Ngày ngày phải đối mặt. Và ngày ngày phải cảnh giác để vượt qua chính mình!

@#$KIM LĂNG HOÀI CỔ (Vương An Thạch) 

Dấu xưa nhắc, phồn hoa bặt, 

Tiếng than trước lầu cao, 

Oán hờn không tắt. 

Ngẫm lại ngàn xưa vinh nhục, 

Thói đời khinh bạc. 

Lục triều chuyện cũ trôi theo nước, 

Còn lại khói xanh lồng cỏ rặt. 

Nay phường ca kỹ, 

Khúc "Hậu đình" xưa, 

Ngày ngày còn hát.

( Yến Lan dịch)