Đôi dòng cảm nhận về Lục bát Trần Huyền Tâm: Tiếng vọng của truyền thống và dòng chảy hiện đại

Đôi dòng cảm nhận về Lục bát Trần Huyền Tâm: Tiếng vọng của truyền thống và dòng chảy hiện đại
Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể thơ lục bát không chỉ là hình thức nghệ thuật, mà còn là một biểu tượng văn hóa. Lục bát ra đời từ ca dao – dân ca, từ lời ru của mẹ, từ tiếng hát đồng dao của trẻ thơ, từ nhịp thở của đồng quê. Nó chính là “dòng sữa ngọt” nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc, trở thành nét đẹp độc đáo của văn hóa Việt Nam.

(Ảnh: Dũng Trần)




ĐÔI DÒNG CẢM NHẬN VỀ LỤC BÁT TRẦN HUYỀN TÂM: TIẾNG VỌNG CỦA TRUYỀN THỐNG VÀ DÒNG CHẢY HIỆN ĐẠI
(Nguyễn Thị Toán)


Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể thơ lục bát không chỉ là hình thức nghệ thuật, mà còn là một biểu tượng văn hóa. Lục bát ra đời từ ca dao – dân ca, từ lời ru của mẹ, từ tiếng hát đồng dao của trẻ thơ, từ nhịp thở của đồng quê. Nó chính là “dòng sữa ngọt” nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc, trở thành nét đẹp độc đáo của văn hóa Việt Nam. Đỉnh cao rực rỡ nhất của lục bát chính là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du (1766-1820) – một áng “thiên cổ kỳ bút” vừa thấm đẫm nhân tình, vừa vang vọng nỗi đau nhân thế. Sang đến thế kỷ XX và XXI, lục bát không mất đi mà được cách tân, làm mới, trở thành một “hình thái sống động” cho thi ca đương đại. Nhiều nhà thơ Việt Nam đã kế thừa, sáng tạo, tạo nên diện mạo phong phú cho thi ca hiện đại. 


Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ Thơ mới thành công nhất với thể thơ lục bát, đem vào đó hồn quê mộc mạc và chất dân ca đằm thắm - thơ ông thường giản dị, gần gũi như lời trò chuyện, lời ca dao, nhưng lại thấm sâu vào lòng người bởi tình cảm chân thật: trong bài “Tương tư”, nỗi nhớ thương da diết của chàng trai quê được diễn đạt bằng hình ảnh dân dã: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người” - cách nói dung dị mà tha thiết ấy vừa gợi nhạc điệu ngọt ngào của ca dao, vừa làm nổi bật cái chân chất, nồng hậu trong tình yêu thôn quê. Cũng bằng giọng điệu lục bát mềm mại, trong “Chân quê”, Nguyễn Bính lại tha thiết nhắn nhủ cô gái quê hãy giữ gìn vẻ đẹp mộc mạc, đừng đánh mất hồn quê: “…. Còn đâu cái yếm lụa sồi/ Chiếc khăn mỏ quạ, cái quần nái đen/ Nói ra sợ mất lòng em/ Van em, em hãy giữ yên quê mùa/ Như hôm em đi lễ chùa…”. Trong “Lỡ bước sang ngang”, những câu lục bát ngân nga nỗi buồn thân phận đã khiến người đọc liên tưởng đến tiếng hát dân gian xưa: “Chồng tôi là lính đảo xa / Chiều chiều ra đứng trông ra biển ngoài”. Sự kết hợp hài hòa giữa thể thơ truyền thống, ngôn ngữ dân gian và tâm tình nông thôn đã tạo nên nét đặc sắc riêng trong lục bát Nguyễn Bính – vừa quen thuộc, vừa độc đáo.


Nếu Nguyễn Bính gắn bó với nỗi niềm quê mùa, thì Tố Hữu lại đưa lục bát vào dòng thơ cách mạng, khơi dậy tình cảm gắn bó giữa cán bộ và nhân dân: “Mình về mình có nhớ ta / Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” (Việt Bắc). Ở một phương diện khác, Xuân Quỳnh đã khẳng định tiếng nói nữ tính trong thơ lục bát, tha thiết và khát khao hạnh phúc: “Chắt chiu từ những ngày xưa/ Mẹ sinh anh để bây giờ cho em” (Mẹ của anh), Nguyễn Duy đem đến cho lục bát vẻ đẹp đời thường, giản dị mà sâu sắc, như trong Tre Việt Nam: “Tre xanh xanh tự bao giờ / Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”. Cùng với đó, Trần Đăng Khoa từ thuở thiếu thời đã thổi vào lục bát sự hồn nhiên, trong trẻo của tuổi thơ qua “Vườn cải”; “Nghe thầy đọc thơ” ( in trong tập thơ: Góc sân và khoảng trời – 1968).  Không dừng lại ở truyền thống, nhiều nhà thơ đương đại như Kim Chuông, Nguyễn Trọng Tạo hay Đỗ Trung Lai còn tìm tòi, cách tân nhạc điệu, mở rộng biên độ biểu đạt cho lục bát trong bối cảnh hiện đại. 


Như vậy, qua từng chặng đường, từ Nguyễn Bính đến các nhà thơ đương đại, lục bát vừa được bảo tồn vừa được đổi mới, khẳng định sức sống bền bỉ và khả năng thích ứng của một thể thơ thuần Việt trong thi ca dân tộc. 


Trong dòng chảy ấy, Trần Huyền Tâm xuất hiện với những bài thơ lục bát, mang theo một tiếng nói vừa quen vừa lạ: quen bởi hơi thở dân gian, lạ bởi chiều sâu triết lý và sắc thái tâm linh. Với tư cách một hiện tượng thơ lục bát đương đại, Lục bát Trần Huyền Tâm không chỉ tiếp nối mạch truyền thống, mà còn mở rộng biên độ biểu đạt của thể loại này ở cả bốn góc độ: hồn thơ, đề tài, tư tưởng và nghệ thuật thể hiện.


Ở phương diện hồn thơ - như chúng ta từng biết - hồn quê là chất liệu cội nguồn của lục bát. Ca dao đã từ lâu vẽ nên bức tranh nông thôn Việt Nam với những nét mộc mạc, giản dị: 


Trên đồng cạn dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa


Đó là nhịp lao động, là bức họa đời sống dân gian. Đến với Trần Huyền Tâm, ta bắt gặp một nông thôn vừa quen vừa mới. Trong bài “Qua mùa lúa” viết năm 1977 (12 tuổi), nhà thơ viết về con đường làng được trải vàng rạ rơm mùa mới, với cánh đồng lúa chín ngào ngạt hương thơm:


“...Con đường vào xóm trải vàng rạ rơm

Đâu đây thoang thoảng mùi hương

Ngẩng lên đồng lúa ai đơm nắng vàng”


Nếu ca dao hướng đến sự tái hiện đời sống thường nhật, thì ở Trần Huyền Tâm, hồn quê đã được lãng mạn hóa, nâng lên thành miền hoài niệm. Hình ảnh “buồm như cánh bướm bay” là minh chứng cho sự “thăng hoa hóa” cảnh vật quê hương – một thi pháp nhuốm màu hội họa, giàu tính trữ tình.


Con đê cõng gió chạy vòng

Dòng sông chải nắng thong dong mây chiều

Nhà mình mái rạ thơm sương

Liếp tranh tiếu ngạo bốn phương gió trời

Võng đay chao tiếng ạ ời

Thềm trăng chiếu cói dệt lời yêu thương. 

(Giấc mơ quê)


Điểm đặc biệt là Trần Huyền Tâm đã nối dài mạch dân gian bằng cách đưa vào đó cảm thức cá nhân. Quê hương không chỉ là không gian chung của cộng đồng, mà còn là ký ức riêng, là miền trở về tinh thần. Chính sự pha trộn ấy giúp thơ chị vượt khỏi sự sao chép ca dao, trở thành một sự tiếp biến sáng tạo.


Quê đâu chỉ bởi cái tên 

Quê là tất cả nỗi niềm thương yêu.

Phải duyên thì bắc cầu kiều

Giá gương đâu ngại nhiễu điều phủ quên.

 

Bận lòng chi một cái tên

Hồn Quê phách đạo lạc tiên cõi người.

Ấm lòng khẽ gọi: “Quê ơi!”

Đã nghe yêu dấu “Dạ” nơi tim mình.

(Quê ơi)


Nhìn từ góc độ đề tài không ai có thể phủ nhận trong lịch sử lục bát, tình duyên luôn là một mạch cảm hứng lớn. Ca dao từng viết: 


“Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”


Trong “Truyện Kiều” - Nguyễn Du – lại khắc họa bằng một bi kịch vĩ đại:


“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”…

…“Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương…”


Đó là những nỗi đoạn trường đã khắc sâu trong tâm hồn dân tộc. Đến Trần Huyền Tâm, ta bắt gặp sự giao thoa giữa hoài niệm và triết lý. Nếu Nguyễn Du tập trung vào sự tan vỡ của lời thề: “Ngày xưa ai đã thề nguyền/ Bên cầu gió lộng, trăng hiền soi chung” thì Trần Huyền Tâm nghiêng về hoài niệm, để quá khứ trở thành một tiếng vọng cho niềm tin yêu:


Bao năm lạc bóng phai hình

Cao xanh giờ đã cho mình có ta

Để rồi đòn gánh nở hoa **

Hạc vàng mây trắng đón ta về mình...

(Khi quá khứ gọi tên nhau)


Từ ca dao đến Nguyễn Du, tình duyên vẫn là nỗi băn khoăn về kiếp người. Nhưng khác với bi kịch tuyệt vọng của Nguyễn Du, ở một thời đại mới, Trần Huyền Tâm có quyền tin tưởng và hy vọng, rằng tình yêu có thể được giữ gìn nếu con người biết nâng niu, trân trọng:


Ai đem chạch bỏ ngọn đa

Để tơ trời níu duyên ta với mình

Xanh xanh rau diếp bên đình

Gỗ lim hoá giải nợ tình nơi nhau.


Nước trong mà giếng thì sâu

Thương nhau ta nối dây gầu dài thêm

Để rồi quá khứ dịu êm

Không vu vơ gọi riêng tên chúng mình...

(Khi quá khứ gọi tên nhau)

Và:

Ta mang lời thệ đi tìm

Thơ nâng cánh gió, nhạc thiền bước trăng 

Bỏ buông câu chữ lằng nhằng

Đằng vân cánh hạc vút thăng đỉnh trời.

Trả câu lục bát cho người 

Chân tâm như ngọc rạng ngời cõi thiên.  

(Lục bát mùa đông)


Sự khác biệt này làm nổi bật nét nhân văn riêng của thơ chị – một nhân văn gắn với niềm tin, giải pháp và sự giải thoát khỏi khổ đau bằng hướng đạo.


Thương nhau chín bỏ làm mười

Chín không bỏ được thì mười sao nên.

Qua Nại Hà, uống nước quên

Mà sao vẫn vướng nghiệp duyên thế này?!

Vôi vẫn bạc, trầu vẫn cay

Vàng không tiếc, tiếc kẻ say đắm mình.

(Cầm vàng đừng để vàng rơi)


Nhà thơ đã nói nên một đạo lý: “Cầm vàng đừng để vàng rơi/Tình duyên giữ lấy kẻo đời lỡ nhau”, bởi: Duyên tình trao gửi nơi nhau/ Cũng là vay trước trả sau thôi mà… (Nói với người xưa)


Về góc độ tư tưởng: Nếu ca dao thiên về kinh nghiệm sống, Nguyễn Du thiên về bi kịch nhân sinh, thì Trần Huyền Tâm lại đưa lục bát đến gần với tâm linh. Đây là nét mới mẻ của thơ chị, làm giàu thêm cho thể loại.


Trong bài “Tìm về giữa những lặng thinh”, chị viết:


Tìm mình trong cõi mộng mê

Chênh chao đôi bóng chìm về nơi nhau

Thương mình khói tóc bạc nhàu

Vần thơ vỡ giữa xót đau nhân tình.

….

Thấy mình nhẹ bẫng nỗi đời

Thang mây tọa giữa đất trời an nhiên


Đây là sự hòa nhập giữa thơ ca và triết lý nhà Phật về “vô thường”. 


Đường về cũng lắm chơi vơi

Càng lên cao vút thì trời càng trong.

 

Gần - xa, sớm - muộn, thẳng - vòng

Thành hay bại… cũng tại lòng mình thôi. 

Dẫu mây giăng tối mặt trời

Trên cao, xanh vẫn xuân vời vợi xuân. 

(Nói cùng sắc xuân)


Trong “Nhặt chữ”, chị lại kiến tạo một triết lý bằng biểu tượng chữ nghĩa:

 

Chữ Thiện tọa giữa địa đàng
Chữ Chân đặt thẳng, chữ quàng xếp nghiêng.
Chữ An cho đoạn vẹo xiên
Cho vơi cay đắng, ưu phiền nơi nhau.


Thật đúng là: “Nhặt câu chữ Thiện ban mai/Chữ Chân lấp lánh sớm mai dịu dàng/Chữ An thắp sáng trong làng/Cho người rộng mở dịu dàng từ tâm…”


Ở đây, lục bát không chỉ dừng ở trữ tình, mà trở thành công cụ khai sáng tinh thần, gieo vào người đọc một “con đường an trú”. Đây chính là sự mở rộng biên độ biểu đạt của thể thơ – từ cảm xúc sang triết lý, từ nhân sinh sang tâm linh.


Nguyễn Du, trong phần kết của Truyện Kiều, từng hướng đến một sự giải hòa:“Có trời mà cũng có ta”… Nhưng Trần Huyền Tâm không chỉ giải hòa, mà còn kiến tạo một không gian an nhiên, nơi con người tìm được sự tỉnh thức. Có thể nói, đây là bước “hiện đại hóa” tư tưởng lục bát bằng sự giác ngộ chân, thiện, nhẫn để hướng tới một niềm tin giải thoát tuyệt đối khỏi những khổ đau trần thế.


Ở bình diện nghệ thuật, Lục bát Trần Huyền Tâm vừa mang tính kế thừa, vừa có nhiều sáng tạo. Về nhịp điệu, thơ chị vẫn giữ vẻ đẹp uyển chuyển, âm hưởng ngọt ngào đặc trưng của lục bát:


Quay về bến dọc đò ngang

Hỏi còn ai nhớ người sang cùng mình?

Còn ai ghi bóng tạc hình

Trăng vàng mây bạc đinh ninh một lời?”

Ngước trông về cõi bao la

Giật mình... chốn cũ nhạt nhòa khói sương

Rời xa nhân thế vô thường

Thang mây đã rạng bước đường về quê ’’  

(Nói với người xưa)


Các hình ảnh quen thuộc, đậm tính ước lệ như trăng, sông, cầu, buồm…là sự tiếp nối truyền thống ca dao và Nguyễn Du. Nhưng mặt khác Trần Huyền Tâm đã đưa vào lục bát những hình ảnh, biểu tượng của Nhà Phật: “hoa Ưu đàm”, “hạc vàng”, “thang mây”,… Nhờ vậy, lục bát của chị vừa có chất dân gian, vừa mang hơi thở thiền học, tạo ra một phong cách riêng biệt. Nếu Nguyễn Du nâng lục bát lên đỉnh cao bi tráng của nhân tình thế thái, thì Trần Huyền Tâm mở rộng lục bát thành một cõi tâm linh, giàu chiêm nghiệm và thiền vị.


Lục bát Trần Huyền Tâm là một đóng góp đáng ghi nhận trong dòng thơ lục bát đương đại. Trong sự tiếp nối truyền thống, chị đã khẳng định được tiếng nói riêng: quê hương trở thành miền ký ức trữ tình, tình duyên trở thành nỗi hoài niệm triết lý, nhân sinh trở thành hành trình tâm linh. Sự dung hòa ấy làm cho thơ chị vừa gần gũi, vừa mới mẻ. 


Đọc Lục bát Trần Huyền Tâm, ta không chỉ nghe được tiếng lòng của một người thơ, mà còn nhận ra hành trình của chính mình: từ bể dâu nhân thế tìm về miền an lạc thẳm sâu.


Đặt trong dòng chảy lịch sử lục bát thi ca, có thể thấy: nếu ca dao là cội nguồn dân gian, Nguyễn Du là đỉnh cao bi tráng, thì Trần Huyền Tâm lại góp phần vào sự khai mở tâm linh. Vị trí của Trần Huyền Tâm trong lục bát đương đại chính là ở sự kết hợp độc đáo giữa truyền thống và hiện đại, dân gian và triết lý, nhân tình và thiền học.


Với gia tài thơ không nhỏ: Giọt nắng vô thường, Diệu khúc thời gian, Mây ngàn năm vẫn đợi, Khúc tâm du, Đường về, … Và đặc biệt là Bên trời neo gió - Lục bát Trần Huyền Tâm, nữ sĩ xứng đáng được nhìn nhận như một tiếng thơ góp phần mở ra những khả thể mới cho lục bát Việt Nam trong thế kỷ XXI.