Khúc hậu đình hoa (tiếp theo)

Khúc hậu đình hoa (tiếp theo)
Hôm ấy là ngày Nguyên Đán, tháng giêng, năm Trinh Minh thứ hai, trăm quan tụ tập, vua Trần vì đêm qua rượu quá say, vẫn còn li bì chưa tỉnh, mãi tới chiều mới ngơ ngác tỉnh dậy, thì Hạ Nhược Chúc đã kéo quân vượt qua sông ở Quảng Lăng, Hàn Cầm Hổ với năm trăm tinh binh,

(Ảnh: Trần Bảo Toàn)

KHÚC HẬU ĐÌNH HOA

(La Vinh)


(Tiếp theo)


Hôm ấy là ngày Nguyên Đán, tháng giêng, năm Trinh Minh thứ hai, trăm quan tụ tập, vua Trần vì đêm qua rượu quá say, vẫn còn li bì chưa tỉnh, mãi tới chiều mới ngơ ngác tỉnh dậy, thì Hạ Nhược Chúc đã kéo quân vượt qua sông ở Quảng Lăng, Hàn Cầm Hổ với năm trăm tinh binh, đột nhập qua Hoành Giang vào chiếm Thái Thạch. Tướng đóng giữ ở đây là Từ Tử Kiến một mặt cấp báo về triều, một mặt dẫn quân ứng chiến. Nhưng vì là Tết Nguyên Đán nên quân tướng đều say, không một người cầm vững khí giới Tử Kiến chỉ còn cách bỏ mặc binh lính, lên một thuyền nhỏ, chạy về Thạch Đầu, lại gặp lúc vua Trần say chưa tỉnh, chờ mãi đến chiều, mới được dẫn vào để bệ kiến, thì chỉ được phán:

- Sáng mai sẽ bàn việc xuất binh!

Mấy ngày sau vẫn rối tinh trong cảnh tết nhất, phải mãi tới ngày mùng bốn tết mới cử được Tiêu Ma Hà, Lỗ Quảng Đạt kéo quân đi ngăn giặc. Tiêu Ma Hà thừa cơ Hạ Nhược Chúc vừa mới tới Chung Sơn chưa kịp ổn định quân ngũ, cho Nhiệm Trung lĩnh một vạn quân; Kim Dực kéo ba trăm chiếc thuyền triệt hẳn đường về. Đó là một kế sách rất hay, nhưng vua Trần không nghe. Phải tới ngày mùng tám, các tướng mới kéo quân lên đường. Chỉ riêng Lỗ Quảng Đạt là hết lòng chiến đấu, giết được hơn ba trăm quân của Hạ Nhược Chúc. Khổng Phạm mới đánh một trận đã bỏ chạy. Tiêu Ma Hà thì bị bắt, Nhiệm Trung cũng bỏ trốn về kinh, vua Trần cũng chẳng trách mắng gì lại còn thưởng cho hai hộp vàng, sai Nhiệm Trung ra trận lần nữa. Không ngờ ra đến Thạch Tử Cương, gặp phải Cấm Hổ, Nhiệm Trung đem binh đầu hàng, dẫn quân 'Tùy tiến về kinh đô.

Trong thành lúc này dân chúng, quân nha lính tráng như một đàn chuột tìm đường sống. Vua Trần vẫn như một kẻ mất hồn ngồi trên điện chờ chư tướng báo tin chiến thắng. Đến khi nghe quân Tùy kéo vào thành, mới nhảy khỏi ngai vàng bỏ chạy. Viên Huệ kéo giữ lại thưa:

- Mình vàng trân trọng, y quan ngự điện, chẳng ai dám sát hại, xin bệ hạ đừng kinh sợ!

Vua Tùy đáp:

- Binh mã kéo tới ngay giờ. Đây không phải chỗ yên thân được!

Nói rồi vùng chạy về phía hậu cung, tìm Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần, nói:

- Quân Tùy kéo tới nơi rồi, chúng ta phải tìm chỗ trốn ngay, đừng để thất lạc nhau.

Rồi tay phải dắt Lệ Hoa, tay trái kéo Quý Tần chạy, đến giếng Cảnh Dương, đã nghe tiếng quân Tuỳ reo hò náo động, bèn nói:

- Thôi rồi, hỏng rồi! Chạy không được nữa đâu, cùng nhau chết là xong!

Rồi định đâm đầu xuống giếng, vừa may hậu các xá nhân Hạ Hầu Công lấy thân mình che kín miệng giếng, vua Trần vật lộn lôi Công ra, cuối cùng cả ba lần lượt nhảy xuống. Còn may là vào tháng đông hết, xuân vừa tới, giếng cạn khô, không bị ướt, vua Trần băn khoăn:

- Trốn ở đây mà qua được cơn hoạn nạn, thì làm sao mà lên được?

Khải hoàn thay "Hậu đình hoa"

Trúc tơ im bặt, trống loa dập dồn

Lục triều vượng khí héo hon

Nực cười đáy giếng, ba con ếch ngồi


Ba người ngồi núp rất lâu, chỉ nghe tiếng người huyên náo, chính là quân Tùy đang đi vơ vét cung nữ, vàng bạc. Chỉ thấy chính cung Thẩm Hậu, vẫn ngồi đoan trang trong cung, cùng với Thái tử đóng cửa kín mít, nhưng không thấy vua Trần đâu cả, quân lính tỏa ra bốn bên tìm kiếm. Có cung nữ mách:

- Vừa thấy chạy tới bên giếng Cảnh Dương, hay đã gieo mình xuống giếng tự tử rồi!

Quân lính nghe ra, kéo tới giếng xem xét, nhìn xuống tối mò, nhưng như vẻ có người ngồi bên dưới, vội lấy câu liêm móc. Vua Trần tránh được, quân lính đang không biết làm cách nào, bèn cầm một viên đá vứt xuống, thử xem nông sâu, để tìm cách xuống, Vua Trần thấy đá vứt xuống liền gào lớn:

- Đừng ném vào đầu ta! Mau thả dây xuống, kéo ta lên!

Quân lính liền thả thừng xuống, đã dài đến mấy trượng, một hồi lâu vẫn chưa thấy gì, chỉ nghe thấy vua Trần gào:

- Các người hãy cố kéo ta lên. Ta sẽ lấy vàng ngọc thưởng cho, phải cẩn thận kẻo rồi nát xương ta nhé.

Lúc đầu, hai người kéo, vẫn không lên vì nặng quá, thêm hai người nữa, cũng vẫn không động đậy, có kẻ giải thích:

- Đây nhất định là hoàng đế rồi, nên xương cốt mới nặng đến thế này!

Người khác cãi:

- Có khi chỉ là một thằng sâu bọ, ngốc nghếch nào đó cũng nên.

Mọi người cùng hét lớn ngạc nhiên khi kéo lên đến miệng giếng thấy những ba người, cả Lệ Hoa lẫn Quý Tần. Quân tướng Tùy bò ra mà cười.

Vương Nguyên Phổ đời Tống có thơ tả cảnh này rằng:

"Quân Tùy dậy đất hò reo

Vua tôi Trần vẫn dập dìu tiệc hoa

Chật chội núi sông cũ

Thênh thang đáy giếng sâu

Thành cao khói trắng tỏa

Suối xiết máu đỏ ngầu

Vô tình thay mảnh trăng thâu

Bóng thưa quen thói ra vào lan can."


Quân tướng Tùy kéo vua Trần đi, tìm nạp cho Hàn Cầm Hổ, vua Trần vẫn giữ được vẻ thản nhiên, chỉ lạy một lạy. Tối đến, Hạ Nhược Chúc ở ngoài thành vào, đòi vua Trần gặp mặt, vua Trần thấy tướng

Hạ dữ tợn, bấy giờ mới sợ run, mồ hôi vã khắp người. Hạ thấy vậy liền cười nói:

- Không việc gì phải sợ hãi đến thế. Chưa ai đụng đến cái mạng hàng ấy đâu!

Rồi cho vua Trần cùng các cung nhân ở tạm trong điện Đức Giáo, bên ngoài đặt lính canh gác. 

Cao Đức Hoàng khuyên cha:

- Tấn Vương binh quyền trong tay, đòi lấy một người con gái, nếu không đưa chỉ sợ mang họa về sau:

Lý Uyên liền bàn:

- Cao đại nhân, hai họ Trương, Khổng lấy sắc đẹp ma quỷ để mê hoặc nhà vua, làm rối loạn việc triều chính, dẫn đến sự bại vong của nước nhà. Đã thế thì còn dung hai họ này, giữ cái gốc của tai họa làm gì, để rồi lại làm ô uế cả triều Tùy, chi bằng giết quách, cắt đứt tà tâm của Tấn Vương.

Cao Quýnh gật đầu đáp:

- Đây chính là việc thái công Mông Điện chém Đắc Kỷ ngày xưa, vì chỉ sợ lưu lại kẻ khuynh quốc, hại vua. Thì nay cũng không nên dung Lệ Hoa để hại Tấn Vương làm gì!

Rồi sai dẫn Lệ Hoa cùng Quý Tấn ra chém ở bên suối. Cao Đức Hoàng khuyên giải mãi, Cao Quýnh vẫn không nghe.

Da tuyết mày ngài gái đỉnh Vu

Một cười nghiêng sập cả cơ đồ

Những thương máu nhuộm bờ khe thẳm

Thẹn với Tây Thi dạo Ngũ Hồ."


Tưởng không có gì sinh động, bi đát  và hài hước hơn câu chuyện mất nước của họ Trần. 

Dân gian Việt Nam thường nói: "Cha bòn con vứt". Cha ông đã xây dựng được cơ đồ bằng máu xương tâm huyết. Nhưng khi giao lại cho những đứa con đổ đốn thì quả "Trăm ngàn đổ một trận cười như không".

Có người giải thích: cái sai của Trần Hậu Chủ là cái sai không sửa được. Bởi ông ta có máu nghệ sỹ. Mà làm chính trị thì không thể mơ mộng, thả hồn theo gió theo mây.

Thực ra, bao nhiêu người làm chính trị họ cũng đồng thời là những nhà thơ có tư tưởng thoát tục phiêu diêu rất thơ. Đường Thái Tông vĩ đại để lại nhiều vần thơ chí khí; cha con Tào Tháo xưa là những thi sỹ vang dội một thời...  Chỉ kể riêng thời Trần ở xứ Việt. Phật Hoàng Trần Nhân Tông, rồi thì Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Đặng Dung, Trần Nguyên Đán... Họ là những nhà thơ có tâm hồn nghệ sĩ sỹ thứ thiệt. Nhưng thơ họ thanh cao, tụng ca Đạo Đức nhân cách; biết xót thương dân đen con đỏ.

Nó khác xa, khác hẳn với thứ Thi Vũ Nhạc phục vụ cho cuộc sống ăn chơi trác táng, kích thích dục tính và phần Con của Con Người như của vua quan Trần Hậu chủ!

Đọc đoạn kể của Tùy Đường ở trên, ta không bất ngờ cái hậu của một ông vua tối đã đưa tới thảm họa cho nước mình như thế nào? Bởi nguyên nhân đã quá rõ.

Trước hết, do đam mê tửu sắc, ăn chơi trác táng mà vắt kiệt sức dân. Vua quan chỉ lo vơ vét mọi thứ khiến dân tình khánh kiệt. 

Thứ hai là, vua tụ tập quanh mình những đám xu nịnh, không nhân cách cũng chỉ biết ăn chơi .

Thứ ba là u mê trong Mỹ sắc, Dục sắc. Đàn bà đã làm khuynh thành bao nhiêu sự nghiệp. Nhưng mãi đến hôm nay, cái Mê ấy loài người chưa bao giờ biết tỉnh...

Suy cho cùng, Phật Gia cho rằng thế giới con người lầy lội trong chữ Tình. Mọi cái đều là do cái Tình  đánh thức tâm ích kỷ. Nhưng cái Tình có thể biến người thành Quỷ chính là quan hệ tình dục, tình ái bất chính. 

Đọc về sự xa hoa của Trần Hậu Chủ khiến tôi nhớ "Thượng Kinh ký sự " của Hải Thượng Lê Hữu Trác khi vào phủ chúa Trịnh.

Các cuộc ăn chơi trác táng thâu đêm suốt sáng của các bậc vương hầu vua chúa như trong "Cung Oán Ngâm Khúc" Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng  đã tiên cảm một triều đại sắp lâm sàng  :

"Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,

Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa"


Đọc về đoạn văn bọn lính kéo Vua và hai người đẹp từ giếng lên không thể không mỉm cười chua chát. Bọn lính nói đây là vua cho nên kéo lên mới nặng đến thế. Ai ngờ đưa lên được mặt đất chúng mới tròn mắt thấy, trên con đường trốn cái chết, vua vẫn ẵm người đẹp đi theo. 

Tôi liên tưởng tới Quận Huy trong "Hoàng Lê nhất thống chí" oai phong là thế, bị lính dùng câu liêm kéo khỏi voi và băm nát. Sau đó họ lấy một cái mâm bỏ Chúa vào trên đó để làm đám rước. 

Hình như lịch sử mạt tận của một triều đại nào cũng cho người đời sau nhìn thấy những màn hài kịch cười ra nước mắt! 

Nhắc đến Trần Hậu Chủ, người ta  luôn nhắc tới khúc ca xướng "Hậu Đình Hoa" để nói về một bài hát mất nước. 

Trần Hậu Chủ tinh thông âm luật, ông ta thường tự soạn các điệu múa rồi phổ nhạc để cung nữ luyện tập, nhạc công dàn dựng. Ông ta cũng là người rất giỏi nhạc khí, thường tập trung tinh thần biểu diễn những khúc nhạc tự soạn. Nhưng khúc nhạc nổi tiếng của ông là “Ngọc thụ hậu đình hoa”, “Lâm xuân nhạc”, “Hoàng ly lưu”, “Xuân giang hoa nguyệt dạ”, …Trong đó, “Ngọc thụ hậu đình hoa” là khúc ca, thanh âm, điệu vũ tuyệt mỹ. Vì thế, nam nữ xướng họa vô cùng say sưa.

Như trên ta đã đọc, hai nàng Quý Tần và Lệ Hoa chẳng những có sắc đẹp lộng lẫy, cư xử mẫn tiệp lại có tài thi phú. Cả hai thường cùng Hậu chủ cùng các bực thi văn tài danh trong triều xướng họa mỗi khi có yến tiệc linh đình.

Vì yêu người đẹp tài hoa nên Hậu chủ phải tổn phí nhiều tiền của, cho dựng trước điện Quang Chiếu ba tòa lầu lớn. Ba tòa lầu này dùng toàn bằng gỗ trầm hương. Cửa lớn, nhỏ đều dát toàn ngọc ngà, rèm châu, trướng gấm lộng lẫy. Ba lầu ấy đặt tên là Lâm Xuân, Kết Ỷ và Vọng Tiên (có bản chép là Vọng Xuân).

Dưới lầu, trồng toàn cây quý, hoa lạ, ngào ngạt mùi hương. Lại chất đá xây thành núi gọi là núi Nghinh Phong; tháo nước làm thành hồ gọi là hồ Ngoạn Nguyệt.

Hằng đêm, Trần Hậu chủ bày yến tiệc, họp cả nghin mỹ nhân uống rượu tại lầu Lâm Xuân cùng với các học sĩ ngâm thơ xướng họa. Một khi có những bài thơ hay, thích, nhà vua cho chép lại thành tập và phổ vào khúc đàn để những cung nữ hát xướng suốt đêm, nên được gọi là Trường Dạ Ẩm.

Những bài thơ, những khúc nhạc lả lướt ấy được chép thành 3 tập là:" Nghinh Xuân nhạc", "Ngọc Thu" và "Hậu Đình Hoa". Riêng tập" Hậu Đình Hoa "toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng. Chính Trần Hậu chủ cũng làm một bài thơ góp vào tập  "Hậu Đình Hoa":

* NGỌC THỤ ĐÌNH HOA

玉樹後庭花  

麗宇芳林對高閣, 

新裝豔質本傾城; 

映戶凝嬌乍不進, 

出帷含態笑相迎。 

妖姬臉似花含露, 

玉樹流光照後庭。

 

** Phiên âm


Ngọc thụ Hậu Đình hoa 

Lệ vũ phương lâm đối cao các, 

Tân trang diễm chất bản khuynh thành, 

Ánh hộ ngưng kiều sạ bất tiến, 

Xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh, 

Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lộ, 

Ngọc thụ lưu quang chiếu Hậu Đình.


Một số bản có chép thêm hai câu ở cuối bài này: 


花開花落不長久, 

落紅滿地歸寂中! 


Hoa khai hoa lạc bất trường cửu, 

Lạc hồng mãn địa quy tịch trung! 

(Hoa nở lại tàn, không mãi được, 

Sắc hồng rụng đầy đất, trở về cõi hư không)


***Dịch Nghĩa:


Cây Ngọc Ở Hậu Đình


Nhà ngọc, rừng thơm đối diện với lầu cao,

Mới trang điểm, sắc đẹp vốn khuynh thành.

Cánh cửa lóe lên, dáng kiều ngập ngừng,chợt bỗng nhiên dừng lại,

Vén rèm bước ra, mặt đọng nét cười đón nhau.

Người cung nữ trẻ mặt tươi như hoa ngậm sương,

(Ấy là) cây ngọc phát sáng, chiếu rực rỡ cả Hậu Đình.


***Bản dịch của Bích Hải:


Rừng thơm, nhà ngọc, lầu quỳnh, 

Điểm trang sắc đẹp khuynh thành là đây. 

Ngại ngùng dừng bước phút giây, 

Vén rèm, dáng đọng nét cười đón nhau. 

Trẻ trung hoa thắm tươi màu, 

Nàng như cây ngọc chiếu sau Hậu Đình.


***Bản dịch Phan Thế Roanh:


Bóng rợp hương thơm chốn lâu các, 

Nghiêng thành vẻ đẹp với màu tươi, 

Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước, 

Trước màn chào đón mỉm môi cười, 

Má hồng tựa đoá hoa đầy móc, 

Cây ngọc, sân sau chiếu sáng ngời.


Suốt đêm ngày, Trần Hậu chủ bỏ cả việc triều chính, say sưa bên cạnh Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần và những mỹ nữ ca hát bên tiệc rượu … Đất nước càng suy vong, dân càng cùng cực .

Các nhà chép sử còn kể thêm về vị vua ăn chơi vô độ này: Trần Hậu Chủ cực kỳ xa xỉ. Với dân chúng, ông ta vơ vét rất tàn bạo. Mọi người  không sống nổi phải bỏ nhà mà đi, chết mất xác nơi đất khách. Có vị đại thần là Phụ Tể dâng tấu thư, nói: “Giờ là đã tới lúc trời giận người oán, dân chúng phải bỏ ruộng đất mà đi. Cứ như thế này, e rằng vương triều ta sẽ mất”.

Trần Hậu Chủ đọc tấu chương nổi giận, cho người nói với Phụ Tể:

– Ông có nói lại được không? Nếu ông nói lại, ta sẽ tha cho.

Phụ Tể nói:

– Tấm lòng và khuôn mặt của tôi giống nhau. Nếu cái mặt của tôi không đổi được, lòng tôi sao thay được?

Trần Hậu Chủ giết ngay Phụ Tể.

Vũ Bằng, một nhà văn sống những "ngày Nam đêm Bắc" trước 1975 có một tác phẩm như thơ, như văn, như nhật ký. Đó là THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI. Ông ghi lại cảm xúc da diết của mình với 12 tháng trên đất Bắc, giờ chỉ viết mà nhớ thương. Khi nói về mùa thu, ông đã đưa câu chuyện," bài ca mất nước" với những lời bình luận hài hước mà chua chát. Đặt trong bối cảnh đất nước bị chia cắt, đây không chỉ là một vấn vương bâng quơ. Xin giới thiệu một đoạn văn "có cánh" này :

"Ờ này, hầu hết chúng ta gặp lúc trời sầu ngất ngất, lòng hận mang mang, thường ngâm câu thơ cổ:

"Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa"


Nhưng có mấy ai nhớ rằng Hậu Đình Hoa, nguyên thuỷ là của một anh chàng thấy mùa thu đẹp như điên không chịu được, đã sai các cận thần soạn ra bản hát ấy để cùng hát với khúc “Ngọc Thụ” đêm rằm tháng Tám ở "Vọng Nguyệt đình" trong Ngự uyển?

Cái anh chàng mê mùa thu xanh ấy là một vị vua chơi bời vô độ, hoang dâm có tiếng, tên là Trần Hậu chủ. Chính ông này đã cùng các cận thần soạn ra hai khúc “Ngọc Thụ” và "Hậu Đình Hoa”, nhạc và lời dâm dật để cho các phi tần đẹp nhất trong ban “Nguyệt lý quần tiên” vừa múa vừa hát theo điệu “Lộng Nguyệt Vũ” tức là múa vờn trăng vậy.

Ôi chao, người ta cứ đả kích các cái “sô” và khích động nhạc bây giờ: tội quá. Âu Mỹ, tổ sư lối vũ nhạc ấy, bất quá cũng chỉ là những kẻ nối gót Hậu chủ mà thôi! Đêm thu, trăng sáng, Trần Hậu chủ cho bày tiệc yến diễn, nào nấy chỉ khoác ngoài một cái áo dài màu lụa bạch để vừa múa vừa thoát y… rồi thỗn thà thỗn thiện đến trước mặt Hậu chủ đề trình… ngự duyệt.

Tương truyền các trong ban “Nguyệt lý quần tiên” đều vui vẻ trình thân như các người đẹp “xếch-xy” bây giờ, duy có một người đẹp rụt rè không chịu tiến lại gần nhà vua.

Nhân lúc đó chất men đã bốc, Hậu chủ chạy lại ghì chặt lấy cô ta, xé cái áo dài lụa bạch ra để…sờ soạng làn da mát rượi mỗi lúc mỗi trắng, mỗi lúc mỗi trong hơn và sáng hơn: Nhà vua cười ha hả:

- Chao ôi, trăng cũng đa tình! Không thế, sao mỗi lúc mỗi sáng hơn lên như vậy?

Rồi ngâm vang bốn câu thơ dưới ánh trăng:

"Nguyệt diệc đa tình thậm

Chiếu thử ôn nhu hương

Duy ngô đắc chung lão

Lao nguyệt phí quang mang"


Về sau, có người tạm dịch:

"Gớm cho trăng cũng đa tình,

Này nơi êm ấm cũng rình sáng soi;

Suốt đời riêng một ta vui

Trăng soi tỏ lắm cũng toi công mà!"


Sách xưa chép rằng: Sau khi ngâm xong bốn câu thơ trên, Hậu chủ buông tay ra thì người con gái lăn xuống đất, không động đậy. Thì ra người đẹp bị hôn quân nắm chặt, sợ và hổ thẹn không chịu được, đã tắt thở từ lúc nào rồi.

Các phi tần hoảng hốt tâu lên Hậu chủ thì đức vua lè nhè truyền cho thái giám khiêng bỏ xác chết xuống sông. Nhưng cũng chính giữa lúc ấy thì lửa sáng lóa ở hoàng thành, tiếng hò hét, tiếng đao kiếm vang lên như sấm dậy, quân nhà Tuỳ chiếm được hoàng cung và bủa vây tứ phía để tìm bắt tên vua dâm dật.

Hậu chủ chui trốn vào một bụi rậm, chờ lúc nửa đêm về sáng, thừa khi có mây che khuất mặt trăng bò ra một cái giếng ở hậu cung, đâm đầu mà chết.

Cái chết không mấy gì đẹp, điều đó ai cũng thấy nhưng nghĩ cho cùng thì cũng tội cho Hậu chủ vì tội có phải riêng của Hậu chủ đâu. Ai bảo trời thu đẹp não nùng, buồn se sắt; ai xui gió thu biêng biếc nỗi sầu hắt hiu; ai làm cho ánh trăng thu mươn mướt như nhung để cho người đa cảm thấy tâm hồn phơi phới, thấy lòng tê tái, thấy thèm ân ái?"

So với chính sử, Vũ Bằng đã thay bằng một số truyền thuyết! 

Tác giả: La Vinh