Nơi tâm mình gõ cửa bình yên
- Thứ tư - 29/10/2025 15:52
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này

(Ảnh: Nhà thơ Nguyễn Diệu Liên bên bức tranh "Gõ cửa bình yên" của mình
NƠI TÂM MÌNH GÕ CỬA BÌNH YÊN
(Trần Huyền Tâm)
Mùa thu năm 2025, Nguyễn Diệu Liên, một thành viên Nhóm Văn Búp Thái Bình, cho ra mắt tác phẩm thứ 2 trong cuộc đời sáng tác văn học nghệ thuật của mình: tập thơ và văn xuôi “Gõ cửa bình yên”.
Tôi vinh hạnh được đọc tập thơ văn ấy trong một ngày tháng 9, đất trời đẹp đến nao lòng. Có cảm giác như Hà Thành yêu thương của tôi vừa trở về từ những mùa thu xưa cũ, trong veo và thanh mát. Không còn giông gió tố lốc tạt ngang chiều giật đổ cây cối. Không còn ầm ào mưa đêm khiến chỗ cao nhất của phố cũng bì bõm nước ngập ngang đầu gối. Hồ Tây bước qua những ngày bão giông giờ đây đã thật bình yên. Và có đôi chút lung linh, huyền ảo hơn. Gió mơ màng chải những đọt nắng vàng tơ rồi duỗi dài trên sóng nước long lanh. Trên đường Hoàng Minh Thảo, hàng Phượng xanh ngát đang khe khẽ ru êm mấy sắc hoa cuối vụ, như thể chẳng đành lòng tiễn biệt màu hoa học trò một thời rực rỡ về nơi xa ngái. Nắng lấm chấm thêu hoa lên bóng râm trên đường. Nắng lấn lá liu diu đượm màu trong tách trà xanh đang độ thấu. Nhìn đâu cũng thấy sự hiện diện của một ngày thu đẹp, nắng gió thiện lành, mây nước trong xanh, tươi tắn và ngát hương.
Một cảm xúc trào dâng, bình yên, dịu ngọt.
Ngỡ như sắc nước hương trời đang ùa vào trang sách “Gõ cửa bình yên”. Ngỡ như bình yên dịu lành đang tràn ra từ cuốn sách tôi đang cầm trên tay mà thấm loang vào thiên nhiên và tâm thái con người.
Ngỡ như mùa thu, với những thi vị mỹ diệu nhất, đang giao duyên với từng con chữ của “Gõ cửa bình yên”, để rồi qua từng sát na của thời không, mà hòa quyện, mà tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên và tình cảm gia đình – bè bạn – quê hương, mà làm nên những yên bình cho một cuộc người trong chốn Ta Bà.
Tôi đã đọc “Gõ cửa bình yên” trong khung cảnh diệu huyền của ngày thu Hà Nội ấy. Và tập sách thứ 2 của Nguyễn Diệu Liên đã dắt tôi bước vào một khu vườn ngập tràn hương sắc tươi đẹp, của những kỷ niệm riêng với men say trong từng câu chữ, của tiếng lòng ngập tràn xúc cảm tinh tế của một thi nhân đầy ắp yêu thương từ bi nhân ái. Tiếng lòng của một người không chỉ một lần được đọc cuốn sách quý “Vạn cổ kỳ thư”.
Cũng giống như tác phẩm đầu tay “Nỗi nhớ nghiêng”, văn thơ của Liên không đi tìm sự cầu kỳ huyền hoặc, cũng không thiên về triết luận cao siêu. Liên viết tự nhiên, giàu cảm xúc. Tựa như đang thủ thỉ, nâng niu từng con chữ, từng vần điệu. Để rồi tâm sự, để rồi sẻ chia. Để rồi tất cả những cảnh, những sự mà Liên gặp, từ một bông hoa tháng ba, mùi hương cốm tháng 8, một cơn gió heo may tháng 9, hay thậm chí một bông đậu biếc sót lại trong một chiều cuối hạ… đều trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho Liên trong sáng tác văn học nghệ thuật.
Có thể thấy rõ mạch cảm hứng xuyên suốt thơ Liên là vòng tuần hoàn yêu thương của thời gian và thiên nhiên, của 7 loại tình cảm của con người. Nhà thơ như khắc họa vòng quay của đất trời, qua từng ngày, từng mùa, để mà gửi gắm chút tâm tình riêng của mình. Khi thì là chút bâng khuâng khi thu bất chợt quay về tháng Tư, chút xao xuyến trước sắc xoan tím, hay niềm tin yêu khi mùa đông gõ cửa. Mùa đi và mùa đến trong thơ của Liên không chỉ là cảnh, là sự mà còn là tâm thái, là chiếc gương soi tâm hồn mình.
Ví như là mùa thu, với cơn gió heo may và mùi hương cốm thanh mát:
Người đi xa nhắn nhủ
Thương gió mùa heo may
Ngày chia tay năm ấy!
Bồi hồi hương cốm bay
(Hà Nội chiều thu sang)
Và:
Vấn vương lá vàng xao xác
Mùa thu lạc bước chân về
Nắng như rót đầy mật ngọt
Cho hồn không uống mà say
(Lạc bước heo may)
Hay như một sáng tháng ba, đất trời xuân thì giao duyên với những dải lụa trắng mềm hoa sưa nơi vỉa hè góc phố thân quen:
Tháng ba về qua phố
Hoa sưa níu chân người
Trắng mềm như dải lụa
Trải vỉa hè - sao rơi
(Tháng ba về)
Chính cái nhìn tinh tế ấy đã biến những khoảnh khắc đời thường thành những phút giây thi vị, thành những dòng chảy ký ức đầy cảm xúc, để cho tiếng lòng người thơ neo đậu và cất lên tiếng hát dâng tặng cho đời.
Em ơi…
Đừng buồn nhé!
Mùa đi…
Mùa lại về!
Hoa trong vườn vẫn nở
Cây trong vườn vẫn xanh
(Đợi mùa)
Hay như:
Loa kèn tàn, phố xưa nay đã khác,
Chỉ lòng ta vẫn giữ bóng hình em.
Cô gái nhỏ, tháng Tư nào trở lại?
Ta đợi hoài… một đóa trắng không tên.
(Đợi em cô gái tháng Tư)
Và:
Đông chẳng vội cứ chiều thu ở lại
Tay đan xen bối rối ngọn gió mềm
Từng căn nhà đông ghé qua gõ cửa
Thu mỉm cười lướt nhẹ gót hài xinh
(Cảm tác đầu đông)
Và phần nổi trội của mạch ngầm ấm áp trong thơ Liên vẫn là những bài viết về Tình thân. Tôi đã rất xúc động khi đọc những dòng thơ Liên viết về cha mẹ, một cặp đôi qua thời gian thấm đượm chan chứa sự thủy chung:
Đã qua sáu chín mùa đông
Cha mẹ bên nhau, đêm dài không lạnh
Bởi đôi bàn tay ủ ấm,
thương về…
(Khi mẹ vào thăm cha)
Khi viết về người cha kính yêu đã khuất của mình, giọng thơ Liên thấm đẫm nỗi đau thương và lòng biết ơn chan chứa:
Nhớ bàn tay chai sần theo năm tháng,
Dắt con đi qua bão tố cuộc đời.
Nhớ ánh mắt chứa đầy bao hy vọng,
Dõi theo con từng bước nhỏ chơi vơi.
(Nhớ cha)
Và đây là những vần thơ yêu thương, đậm đầy tin yêu và lạc quan mà nhà thơ dành cho chồng mình:
Tháng của ngày “Trái gió” mẹ sinh anh
Chàng trai mùa đông của em
Mạnh mẽ và gai góc
Bên nhau đợi Xuân về náo nức
Đêm tàn thức dậy ban mai.
(Tháng Mười Hai)
Và tiếng hát yêu thương cảm mến vô lượng khi viết cho con gái, báu vật tuyệt đỉnh của mẹ Liên – một Bình Rượu Mơ mỹ hảo:
Con là ánh nắng mai
Rạng ngời trong mắt mẹ
Mỗi nụ cười con hé
Làm tim mẹ rộn vang.
Bàn tay nhỏ dịu dàng
Ôm mẹ khi nũng nịu.
(Con là ánh nắng mai)
Có thể nói rằng chính những bài thơ về cha mẹ, chồng, con này đã tạo nên độ lắng sâu và sức truyền cảm mạnh mẽ nhất cho tập sách.
Bên cạnh đó là những bài thơ viết về tình bạn, ký ức, và niềm vui sống. Khi thì là một chuyến du ca của Nhóm Văn Búp Thái Bình. Khi thì về “Cô gái ở Gamuda”. Với giọng thơ hồn nhiên, gần gũi, vừa lưu giữ kỷ niệm cho riêng mình, vừa dựng lại chân dung bạn bè. Những bài thơ như vậy không còn chỉ là nỗi niềm riêng tư của Liên mà đã trở thành nhật ký tâm hồn chung của những người trong cuộc.
Thơ Liên thực sự là nơi để giãi bày, được viết ra từ chính những xúc cảm trong tâm hồn của nhà thơ trước cuộc sống thường nhật, là “những sợi tơ rút ra từ cuộc sống và quay trở lại điểm trang cho cuộc sống bằng vẻ đẹp muôn màu của nó”. “… “Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người” (William Wordsworth).
Liên đã rất khéo léo sử dụng những hình ảnh quen thuộc giản dị, giọng điệu êm đềm, thủ thỉ để tạo nên bức tranh ngôn từ thân thương và gợi cảm. Nếu có một hạn chế, thì đó là đôi chỗ thơ còn nghiêng nhiều về kể – tả, ít bứt phá trong cấu tứ và ngôn ngữ. Nhưng bù lại, sự giản dị, chân thành chính là sức hút riêng, khiến người đọc thấy gần gũi, như đang nghe một người bạn tri âm trò chuyện.
Có thể nói, 15 bài thơ của “Gõ cửa bình yên” mang dáng dấp một cuốn nhật ký trữ tình, mà trong đó, mỗi bài là một miền ký ức, một nỗi niềm cảm xúc. Nó là nơi Liên tìm về sau những giờ phút bộn bề lo toan cho cuộc sống. Bình yên mà Liên tìm tới không phải là sự im lặng tuyệt đối, trống trơn, cô lẻ, đơn điệu. Nó là sự an nhiên sau bao biến động của cuộc sống đời thường. Thơ Liên vì thế không chỉ ghi lại vẻ đẹp của cảnh vật, mà còn mở ra một miền trú ngụ cho tâm hồn, qua đó, người đọc gặp một cô giáo dạy toán, yêu thiên nhiên, gắn bó với gia đình, trân trọng bạn bè, và trên hết là biết tìm niềm vui, sự thanh thản từ những điều bình dị.
Ở 48 bài tản văn, Nguyễn Diệu Liên không chỉ ghi dấu bằng những trang viết chan chứa cảm xúc đời thường như ở phần thơ mà giọng điệu đã phong phú hơn, trải rộng từ những chiêm nghiệm cá nhân, ký ức tuổi học trò, tình cảm gia đình cho tới cảm thức quê hương – đất nước.
Tình cảm gia đình luôn là điểm tựa thiêng liêng trong tản văn của Liên, làm sáng rõ một nguồn cảm hứng cốt lõi của tập sách: gia đình là chốn neo đậu, là nơi bình yên sâu thẳm nhất trong cuộc đời của mỗi con người.
Bài Liên viết về mẹ khiến tôi nghẹn ngào. Tôi như gặp lại hình ảnh của mẹ mình khi cha biết tin cha tôi đã hi sinh tại mặt trận phía Nam. Mẹ ngồi đó, lặng lẽ sống với hiện tại và với ký ức. Mẹ trò chuyện với người đã đi xa, như muốn níu giữ, muốn làm sống lại một thời… Từng cử chỉ nhỏ của mẹ đều được Liên khắc họa bằng sự thương yêu đến quặn thắt: Tôi nhớ cha da diết và thương mẹ nhiều hơn. Người phụ nữ cả đời vì chồng vì con, giờ chỉ còn lại bóng lưng cô đơn giữa căn nhà vắng tiếng cười. Giá như có thể ôm hết nỗi buồn của mẹ vào lòng, để mẹ thôi mỏi mệt, thôi mong ngóng những giấc mơ không thật… (Thương mẹ)
Trong bài “Thư gửi cha…”, giọng văn như một dòng độc thoại gửi vào miền hư không. Để rồi chợt nhận ra: nhớ thương không chỉ đến khi yếu lòng, mà ngay cả khi hạnh phúc cũng vẫn trào dâng: Nhưng rồi… có một nỗi đau âm thầm không thể nói thành lời: Là khi con nhớ cha đến da diết, mà chợt nhận ra cha đã ở một nơi rất xa. Con không thể ôm cha, không thể nghe cha đáp lại, không thể gọi “Cha ơi…” và thấy cha quay đầu nhìn con nữa rồi… Thế nhưng cha ơi, con vẫn tin – cha chưa bao giờ rời xa con cả. Cha chỉ đang dõi theo con từ một nơi thật bình yên. Và con – dù cuộc đời có đưa con đi xa đến đâu – vẫn luôn mang theo cha trong tim.
Cách viết chân thành của Liên khiến nỗi nhớ cha trở thành một ánh sáng dịu dàng, ấm áp tình người, chứ không phải bóng tối tuyệt vọng, hư ảo.
Một loạt bài viết: “Tháng Năm của tuổi học trò” , “Những tháng ngày năm ấy ta đã cười thật tươi”, “Cảm xúc tuổi 18”, “Tháng 9 - Heo may hồng đôi má học trò”, “Buổi học cuối cùng”, “Nên và không nên” … cho thấy Diệu Liên viết bằng trái tim của một người thầy – vừa xúc động, vừa gắn bó, vừa dìu dắt, vừa lo toan cho học trò yêu quý của mình. Khi thì là những đoạn văn xúc động về thời khắc chia tay tuổi học trò chan chứa sắc màu phượng đỏ, bằng lăng tím, tiếng ve râm ran, khi thì là những lưu bút nguệch ngoạc, những chiêu trò nghịch ngợm đáng nhớ của lũ “nhất quỷ nhì ma…”. Những hình ảnh không xa lạ với bất kỳ một ai đã từng đi qua tuổi học trò này dưới ngòi bút Diệu Liên, hiện lên sống động, giàu tình cảm. Đặc biệt, bài “Nên và không nên” mang màu sắc thực tế, như một tờ “bí kíp” ôn thi – khác hẳn giọng văn trữ tình trước đó. Điều này cho thấy sự hòa quyện giữa vai trò nhà giáo và nhà văn: vừa dìu dắt tri thức, vừa nâng đỡ tinh thần.
Dòng cảm thức thiên nhiên và đất nước trong tản văn Nguyễn Diệu Liên đã mở rộng không gian cảm xúc của tác giả. Thiên nhiên trong mắt Diệu Liên luôn gắn với tâm trạng: trời xanh thì lòng người cũng sáng, mưa giông thì người mới thấm thía sự mong manh của một kiếp người. Giữa những ngày bộn bề, đứng dưới bầu trời ấy, ta thấy lòng mình sáng lên một niềm vui nhỏ bé nhưng chân thật. Bầu trời mùa hè, xanh một cách lạ lùng, không chỉ đẹp mà còn như một lời nhắc: hãy sống vui, sống hết mình, vì mỗi ngày đều là một món quà rực rỡ của cuộc đời. (Bầu trời xanh đến lạ)
Đọc tản văn của Liên, có thể thấy rõ những chiêm nghiệm nội tâm của cô, đôi khi là nỗi chơi vơi của một tâm hồn nhạy cảm, được miêu tả không bằng khái niệm trừu tượng, mà bằng những chi tiết thường nhật: tiếng đồng hồ tích tắc, ánh nắng không còn ấm, tiếng cười nghe mà muốn khóc.
Chơi vơi… là cảm giác đứng giữa một khoảng không, phía sau chẳng còn gì để níu kéo, phía trước mù mịt như sương giăng. Là khi người ta nói, “cố lên”, nhưng chính mình lại không biết phải cố vì điều gì. Là những đêm dài không ngủ, chỉ có tiếng thở dài hòa vào tiếng đồng hồ tích tắc, như nhắc nhở từng phút giây trôi đi trong vô nghĩa.
(Những ngày tháng chơi vơi)
Chính cách viết cụ thể hóa ấy khiến nỗi buồn trở nên gần gũi, người đọc dễ đồng cảm.
Với “Đóa hoa trắng không tên”, tác giả vận dụng thơ như một nhịp cầu gợi cảm xúc. Đây là một đoạn văn bình thơ hiếm hoi trong tập, nhưng cũng là nơi bộc lộ chất “người yêu cái đẹp” của Diệu Liên: lặng, trong, da diết mà không ủy mị.
“Ta đứng ngẩn, tay chạm vào quá khứ” – có ai chưa từng đứng lặng nhìn về một ký ức đẹp đẽ mà tiếc nuối? Bàn tay tưởng như chỉ muốn níu lại một chút gì của ngày xưa – một ánh mắt, một tiếng cười, một cái ngoảnh đầu – nhưng chỉ còn lại khoảng không. Nỗi buồn thấm qua câu thơ cuối ấy: “Thấy mắt em buồn như tiếng chuông đêm” – không phải nỗi buồn bật khóc, mà là nỗi buồn lặng lẽ, ngân vang mãi trong lòng, như chuông ngân giữa đêm vắng – thảng thốt, rồi day dứt.
Với Hà Nội mùa thu, tác giả đã dựng nên một bản hòa ca thu bằng những lát cắt tinh tế: gánh hoa, cốm lá sen, hương hoa sữa, hoàng hôn hồ Tây…: Mùa thu Hà Nội – có thể gói gọn trong một gánh hoa, một gói xôi cốm, một chút hương hoa sữa thoảng qua... như một nhịp thở dịu dàng và đôi khi chỉ cần một ánh mắt dịu dàng chạm nhau giữa chiều thu cũng đã đủ làm ta xao xuyến (Mùa thu Hà Nội- gói gọn trong một nhịp thở dịu dàng).
Đặc biệt, bài về những cảm xúc khi thăm lại địa đạo Vịnh Mốc cho ta thấy một sự chuyển mạch lớn trong tiếng lòng tác giả, từ ký ức riêng tư sang ký ức cộng đồng – từ nỗi chơi vơi cá nhân đến lòng biết ơn dân tộc. Đây chính là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung, làm giàu thêm ý nghĩa nhân văn cho tập sách.
Nhưng trên hết, với tôi, bài “Quê không cần gõ cửa bình yên” thực sự là một điểm nhấn của tập tản văn:
Có những điều đẹp không vì lớn lao, mà vì nó đơn sơ và thật thà. Ở quê, mỗi ngày trôi qua tưởng như chẳng có gì đặc biệt, nhưng chính cái bình thường ấy lại khiến người ta nhớ mãi. Cái đẹp của quê không phải để ngợi ca, mà để người ta tìm về khi mỏi mệt. Vì quê là nơi khiến người ta cảm thấy đủ đầy, ngay cả khi không có gì cả. Vì quê là nơi mỗi ngày đều bình thường… đến mức đẹp lạ thường. Quê không cần gõ cửa bình yên – vì chính nó đã là bình yên.
Với Liên, Quê là nơi trú ngụ của sự bình yên trong tâm hồn. Không triết lý dài dòng. Không ngôn từ cao xa. Liên chỉ quan sát và lắng nghe. Và thủ thỉ với lòng mình. Quê hương hiện ra trong văn thơ của Liên với những hình ảnh, chi tiết thật giản đơn. Đó là tàu cau, giàn bầu, quả mít, giàn hoa giấy, võng trưa… Nhưng nó đã cho ta thấy một chân lý mà không ít người vẫn đang loay hoay, mất nhiều công sức để tìm kiếm: quê chính là bình yên. Mà bình yên ấy chẳng cần gõ cửa tìm kiếm đâu xa. Ai đi xa, nhất là những lúc mệt mỏi, đều mong tìm về quê. Tìm về với chính mình của một thời “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chân lý đó đồng vọng với tên của tập sách. Điều này cho thấy ngôn từ và cách tư duy của Liên đang ở trong Đại Đạo. Đại Đạo là chí giản chí dị! Cư trần lạc đạo là đây chứ ở đâu xa!
Khép sách lại, chợt nhớ đến đoạn kết của bài thơ “Trở lại Tháp Bà” của Liên được in ở tập “Nỗi nhớ nghiêng”:
Gửi lại đây nụ cười rất nhẹ
Không bão giông, không chớp giật lòe
Ta về với an nhiên ta nhé!
Chốn vô thường, ta chỉ khách thôi.
Lại hiện lên trước mắt tôi một Diệu Liên “không chỉ là một thi sĩ, một họa sĩ, một nhạc sĩ, mà đích thực một đóa sen trắng, một nàng tiên áo trắng. Nàng tiên ấy tới nơi này từ một cõi rất xa. Sau những giây phút đối cảnh mà sinh tình, đối cảnh mà sinh sự, sau những phút trải lòng... nàng đã chợt nhớ ra, đã thức tỉnh. Dường như nàng đã ý thức được mục đích của cuộc lãng du đến “làm khách” ở nơi cõi thế này. Vì thế, nàng đã gửi lại Tháp Bà, gửi lại nơi cõi thế ba đào chìm nổi này, “một nụ cười rất nhẹ”, rồi quay gót hài trở lại chốn xưa, cõi xưa, trở về nơi quê hương đích thực của mình.” (Trần Huyền Tâm - Nỗi nhớ nghiêng về một cõi thiêng xanh - Lưng túi gió trăng - NXB Hội Nhà văn 2024)
Bỗng dưng tôi lại ước được như nàng tiên áo trắng ấy, một chiều nhẹ nhàng trút hết những lo toan phiền nhiễu nơi cõi vô thường, rồi ung dung quay gót trở về cõi thiêng của mình.
Nơi cõi thiêng xa xanh ấy, có rất nhiều người đang chờ đợi chúng tôi.
Nơi ấy không cần gõ cửa bình yên. Bởi, nơi ấy chính là quê hương của mọi bình yên.
Xin chúc mừng Nguyễn Diệu Liên đã cho ra mắt một tác phẩm hay, rất đáng đọc!
Xin cảm ơn Liên đã cho tôi một lần nữa được bình yên chứng thực lời ước nguyện xa xưa đang gõ cửa tâm mình. Để nhắc nhớ rằng: tôi - một lữ khách trong cõi vô thường này - đã có được một vinh hạnh vô cùng trân quý nơi kiếp nhân sinh này khi cùng với các tình yêu có mặt trên chuyến tàu trở về quê nhà, một chuyến tàu đã sắp cập về ga cuối.
Hà Nội, ngày 9 tháng 9 năm 2025