Giới thiệu tác phẩm mới: Hà Nội ngày con xa của Nguyễn Thị Toán
- Thứ sáu - 03/10/2025 11:02
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này


Chuyên mục Tác giả Tác phẩm của Nhà Búp xin hân hạnh được giới thiệu với các bạn tác phẩm mới - tập thơ &văn xuôi "Hà Nội ngày con xa" của một thành viên Nhà Búp: cô giáo, nhà thơ Nguyễn Thị Toán qua bài viết của Nhà thơ KIM CHUÔNG nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Thái Bình
“HÀ NỘI NGÀY CON XA” MỘT NĂNG LƯỢNG CHUYỂN HÓA VÀ KẾT TINH
GIỮA CẢM RUNG & CHIỀU SÂU SUY NGẪM
Trong đội ngũ “Các Nhà văn Nhóm Búp,” trong hai trăm gương mặt đi qua “Lớp Đào tạo, Bồi dưỡng các em thiếu nhi ở Thái Bình có năng khiếu sáng tác Văn học từ những năm 1976 – 1990, thi sĩ Nguyễn Thị Toán, đã sớm dội một tiếng vang vào bầu trời văn chương tuổi thơ trên một vùng quê lúa với bài thơ nổi tiếng, mang tên “Cháu hỏi Ông”. Bài thơ là một “mặt trời riêng”, một bài “thơ Quả núi” mà các bậc Thầy: Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Võ Quảng, Phong Thu… và tôi, trong bài phẩm bình đăng trên các báo, đã thật mừng xếp cho Toán ngự ở một “chiếu thơ cao”.
Nguyễn Thị Toán đã sớm bộc lộ giọng điệu riêng, giọng điệu giàu ảnh hình, suy ngẫm, giọng điệu mang sức nặng của chiều sâu về một kiếp nhân sinh, với “tự thức” và “tự vấn” thế này: Ông ơi vì sao /Giọt nước biển quê mình mặn chát /Chẳng khác giọt mồ hôi và nước mắt /Của bao người đổ ra? Rồi: Ông trầm ngâm nhớ lại thuở xưa xa /Nỗi buồn hiện lên mặt ông /nếp nhăn nhiều như mắt lưới …
Vâng. Những dòng thơ trên đây mà Nguyễn Thị Toán, cô bé mới 11 – 12 tuổi đầu còn bé xíu đã “khác người” là không cậy nhờ vào khách thể, không cậy nhờ vào mắt nhìn, mà tự đem hồn mình ra “Làm một thế giới” để tung hoành xới cày, để tìm lấy “Cái Biết” trong thơ.
Có một vệt đậm trong thơ Nguyễn Thị Toán luôn hướng về suy tư, triết thuyết, đi từ thuở ấu thơ cho tới mãi dài dặc đường tìm. Đây là cái tạng, hay sở trường, hay đấy là “Cái Có” của riêng Toán, ở một người cầm bút ?
Trên thực tế, Cảm xúc làm cho thơ dễ cuốn say, quyến rũ. Nghĩ suy, dễ đem đến cho thơ một nguồn mở mang chiều sâu của một cõi tâm linh.
Sau ba bốn năm trời theo học “Lớp năng khiếu sáng tác văn học ở Thái Bình,” Nguyễn Thị Toán bước vào Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội rồi làm Phóng viên Báo, làm cô giáo dạy văn có nhiều học sinh giỏi Quốc gia ở một trường Trung học Phổ thông trên cao nguyên Đăk Lăk.
Cả một đời tâm huyết, gắn bó và hiến dâng cho “Sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp trồng người” nhưng, trái tim thi sĩ mà Nguyễn Thị Toán được ông trời phú cho, đã không chút yên bình. Năm tháng – cuộc đời, tất cả những gì có từ con mắt ta nhìn, con tim ta cảm nhận, cái óc ta ngẫm suy… luôn hóa thành nguồn chảy, nguồn chắt lắng của phù sa và muối mặn dồn xô trong Toán, luôn hóa thành ngữ ngôn của văn chương được hiện hình trên trang viết qua những trầm tích thời gian.
Điều khẳng định xanh rờn trên cõi ba sinh này, Nguyễn Thị Toán được đẻ ra từ gốc rễ của “cái kiếp? Hay, cái nghiệp văn chương” luôn níu bám, dày vò. luôn nặng đầy tâm sự, luôn cần được sẻ chia, giải thoát của khoảng trống, của bao nhiêu vỉa tầng từ hai chiều “Hiện thực ngoài Ta – Và, Hiện thực Hồn Ta” đang vang lên tiếng gọi …
Vâng! Căn nguyên là đấy! Để rồi, từ đấy - cả đời một Nhà giáo đã nối vào đời một “Văn Thi sĩ” với tập Thơ và Văn xuôi : “Nơi thao thiết những vòm xanh.” (NXB Hội Nhà văn 2021).
Là người Thầy văn chương, đọc và theo dõi Thi sĩ này từ thi phẩm đầu tiên xuất hiện - Tôi hiểu và hào hứng viết về “Nơi thao thiết những vòm xanh” của Nguyễn Thị Toán, khi ấn phẩm vừa mới ra đời. Càng vui mừng hơn, khi mùa thu 2025, sau bốn năm lặng lẽ xới cày, “Hà Nội Ngày con xa” (Tập sách thứ hai, tập văn chương mới nhất, với thơ và tiểu luận phê bình văn học) Thi sĩ Nguyễn Thị Toán vẫn tô đậm và nối dài trên mạch nguồn và thế mạnh vốn có của mình.
Với thơ. Nguyễn Thị Toán vẫn biểu hiện cái lung linh, lấp lánh, cái đáng nói có từ năng lượng khá dồi dào trước mạch nguồn suy tưởng.
Dễ thấy, Nguyễn Thị Toán là Nhà giáo – Thi sĩ, Người hiền thảo hiếu đễ, Người luôn đề cao đạo lý, nhuần thấm cơn mưa móc trên đời về công lao dưỡng dục, sinh thành trước song thân, trước công cha, nghĩa mẹ.
Trên nhiều trang viết, Nguyễn Thị Toán quan tâm đến nhiều đề tài, như thiên nhiên, nhà trường, bạn bầu, cháu con, người lính ... Nhưng, hình như, cứ chạm vào nghĩa “phụ mẫu tình thâm,” chạm vào hình ảnh mẹ cha, là Nguyễn Thị Toán lại run rẩy, lại mềm đi, lại rơi vào vực xoáy của cái Cảm. Lại đắm chìm vào nhiều tầng quặn thắt của suy tư. Và những câu thơ gan ruột lại ứa trào, tuôn chảy như không có điểm dừng. Những câu thơ dễ làm người đọc rưng rưng, khó cầm nước mắt. Ví như bài thơ viết tặng các chị các bạn có những người mẹ, người cha hy sinh trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ:
Mẹ ơi!
Có thể là Cha đang yên giấc
Giữa một mảnh vườn rợp bóng cây xanh
Bên dòng sông, con suối hiền lành
Có thể Cha con vừa chợp ngủ
Trên đường hành quân xuyên rừng ra mặt trận
Tay ôm gốc cây già bị đạn pháo nứt toang
Mặt đất cày loang lổ những vết thương…(Mẹ ơi)
Hay đây là, những câu thơ “Viết tặng cha mẹ mùa Vu Lan” báo hiếu: “Cha Mẹ ơi!Nhà Phật dạy phải an nhiên tĩnh tại/ Xuân đến, xuân đi cũng là lẽ thường tình …/Cha Mẹ an nhiên là con cái yên lòng/Con sẽ lại về một ngày không xa nữa/Ngắm dòng sông Tô êm đềm trước cửa/Ngắm mưa ngâu và những ngọn đèn vàng/Chẳng cơm nào thơm bằng cơm mẹ nấu/ Có trà nào ngọt bằng nước mẹ đun…”
Chi tiết cụ thể, thi liệu thơ được cụ thể hóa ở “Sông Tô trước cửa, với cơn mưa ngâu, với ngọn đèn vàng”. Rồi hình ảnh: “Chẳng cơm nào thơm bằng cơm mẹ nấu/ Có trà nào ngọt bằng nước mẹ đun” ... đã đem đến sức chinh phục từ cái thực, cái chân thực, cái yếu tố của một thi pháp “Thơ Thi nhãn”, Thơ diện kiến, ngắm nhìn.
Cùng hướng tiếp cận, đánh thức này, người đọc còn gặp cái xúc động chân thành, chân mộc từ hình ảnh một “Chén trà của cha” trong sâu xa cảm nhận:
Con nâng trên tay nóng hổi chén trà
Khói mỏng quàng qua vai
như bàn tay cha ngày cũ…
…Giọng cha trầm,
nhẫn nại như đất quê ta,
đằm như tiếng mưa vào lòng đất ải…
Viết về Cha, về Mẹ, thơ Nguyễn Thị Toán như cơ hồ dòng chảy, đang buổi triều dâng, luôn muốn vỡ ra… mang hơi thở của trường ca, mạnh mẽ dâng trào ở hai chiều “Sinh – Khí”.
Bài thơ “Mẹ tôi” hay “Hà Nội, ngày con xa” cũng vậy. Thơ? Hay đấy là tiếng lòng người thơ giống như mặt sông phơi hết mình trong nắng. Đáng chú ý ở những bài thơ này, hình ảnh thơ luôn đạt tới sức điển hình hóa, cụ thể hóa và trở về cái ấn tượng có được ở sự “cá thế hóa” nữa.
Hãy đọc: Mẹ ơi/ Sáng nay con xa Hà Nội/lá bàng rụng bay bay trên phố/như bàn tay nhỏ vẫy chào …/Con xa rồi/Hà Nội mùa vẫn tiếp mùa trôi …/Chỉ ký ức là ngưng đọng lại/từ ngày cha khuất xa/chiếc bàn trà mồ côi/trang sách buồn không mở/mắt mẹ mãi nhìn căn phòng khép cửa/như thể chỉ cần kiên nhẫn chờ /là cha sẽ bước ra …
Có lẽ, đi từ góc hồn trong xanh để trụ về phía dài rộng, trong xanh hơn nữa, Thơ Nguyễn Thị Toán luôn mang về vẻ Cao sang và Đẹp: “Thơ không bụi bặm, phá phách, xô bồ. Thơ của hồn thơ ngụp lặn trong nồng đượm, yêu thương, mát ngọt. Thơ của cái Cảm bùng nổ cho cái Nghĩ phát lộ, nương nhờ. Thơ đẻ ra từ cõi hồn đã bay lên, đã tinh lọc. Đã lắng. Đã đem về cái tinh khiết hương Sen, qua xa khuất ánh Bùn…”(*)
Trên hai chiều Cảm xúc mạnh và Tư duy sâu, Thơ Nguyễn Thị Toán luôn trụ vững và bay lên từ đôi cánh vẫy vùng và thăng hoa ấy.
Trước hết và sau cùng, thơ Nguyễn Thị Toán vẫn là thơ của thi sĩ giàu rung cảm, yêu thương và lắng chắt. Những câu thơ vía hồn này không gì khác, đấy là thơ của con tim luôn cháy lên từ bao nhiêu đượm nồng, day trở.
Ví như, đây là Nguyễn Thị Toán trước một “Giấc mơ xưa”: Thêm một lần em xa Hà Nội/Sao dùng dằng, không ngớt mãi, mưa ơi! Mưa thầm thì như lời từ biệt/của mùa hè năm ấy, thuở xa xôi…/Sẽ còn mãi trong em màu phượng đỏ/Hàng cây bên hồ gió lộng, tiếng ve ran/Mối tình đầu như vệt sao sáng mãi /Một khoảng trời ký ức của riêng em!
Hoặc, trước một đêm biển thức: Chỉ còn em thao thức với biển thôi/ Biển vô tận, vô biên biết khi nào ngừng lặng!/Ai có còn xót xa bờ vai mảnh/Thương bến buồn chờ mãi cánh buồm mơ? (Biển đêm)
Đấy là thơ - qua đối thoại với thiên nhiên rộng lớn. Còn khi quay về tuổi thơ, viết tặng cháu con mình, thơ Nguyễn Thị Toán cũng khá tinh tế, khá tươi vui, ngộ nghĩnh: Cái mũi xinh bé tẹo/Chỉ má là bầu thôi/Răng thì vô kỷ luật/Mọc nghiêng đến buồn cười/Tóc mây màu hạt dẻ/Mềm như sợi tơ trời/Ôm em thơm mái tóc /Hạnh phúc nhất trên đời! (Tặng cháu Judy yêu quý). Rồi, đây là thơ viết tặng bé Shu: Shu tập làm ca sĩ/Cũng phiêu “như đúng rồi”/Mắt nhắm tít yêu lắm/Miệng ư... a... không lời…
Cân bằng trên hai vế khơi tìm, giao hòa và biến hóa ở hai chiều “Cảm rung và sức nghĩ”, Thơ Nguyễn Thị Toán đi vững trên nền thơ ấy. Bài thơ “Đi dọc miền Trung, Mẹ ơi, Chén trà của cha, Hà Nội ngày con xa” … rồi, thơ viết về Phú nghĩa, về Hồ Lắc, về miền Đông, miền Tây Nam bộ… Thơ Nguyễn Thị Toán biểu hiện sự phong lưu, trường sức, sự phồn sinh, giàu có ở ảnh hình, thi liệu, sự không cùng của nguồn khơi luôn lóe sáng, gọi mời trong hồn thơ thi sĩ.
Ở phần II tập sách “Hà Nội ngày con xa” Nguyễn Thị Toán đã tập hợp giới thiệu những trang viết bao gồm những bài Nghiên cứu, Phê bình văn học. Những trang viết này, bộc lộ một năng lực khác, năng lực của người có “Con mắt xanh” có khả năng thẩm thấu, mổ xẻ những gì thuộc về thi pháp trên trang viết.
Trong các “Nhà văn Nhóm Búp,” cùng với Trần Huyền Tâm, Bùi Thị Biên Linh, Đào Thanh Bình, Lã Thị Bắc Lý…, Nguyễn Thị Toán là tác giả có khá nhiều đóng góp ở các bài giới thiệu thơ, giới thiệu chân dung văn học. Trên lĩnh vực tiếp cận văn bản, cảm nhận và phẩm bình, Nguyễn Thị Toán bộc lộ những nét mạnh và riêng của nhà văn, người trực tiếp cầm bút sáng tác.
Với phương pháp giải mã: “Bắt nhập - Hòa đồng – Sẻ chia – Và mổ xẻ tác phẩm.”- Yếu tố này, phẩm chất này làm nên Con mắt - với Con tim - với “cái thần” của người viết qua từng dòng “Cảm luận”.
Ví như, đây là nhận xét về Tiểu thuyết “Lính Miền Đông" của Bùi Thị Biên Linh: “Nếu "Dấu chân người lính" (1972) của nhà văn Nguyễn Minh Châu dựng lên chân dung lãng mạn và hào hùng của những người lính mang cả thanh xuân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, thì “Lính Miền Đông” của Bùi Thị Biên Linh đã tái hiện với một quy mô lớn bức tranh hiện thực chiến trường Miền Đông (Miền đất đỏ Bazan kéo dài từ Nam Tây nguyên nơi có những cánh rừng bạt ngàn dựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ”… “Không gian nghệ thuật của tác phẩm, thế giới nhân vật được mở rộng … Nhân vật của “Lính Miền Đông” được tác giả miêu tả linh hoạt, có khi là một cách đầy đặn với đầy đủ chân dung, tính cách, số phận … Có khi chỉ là phác họa đôi ba nét về ngoại hình hoặc sở thích, nhưng vẫn gây được ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi sự riêng biệt, độc đáo khó lẫn….Bùi Thị Biên Linh đã kết hợp nhuần nhuyễn chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, bám sát hiện thực, xâu chuỗi những sự kiện lịch sử một cách chặt chẽ và khéo léo tạo nên mạch truyện thống nhất đầy cuốn hút”
Đấy là nhận xét về Bùi Biên Linh, còn với văn xuôi của Trần Thu Huê qua tuyển tập truyện, ký “Những ngày tươi đẹp”, Nguyễn Thị Toán viết: “Có thể nói các sáng tác thuộc thể loại truyện đồng thoại và văn miêu tả của Trần Thu Huê ở thời tuy còn là “Búp trên cành” song đã rất “già dặn” trong tư tưởng và bút pháp, mang đậm chất nhân văn, đồng thời kết hợp hài hòa giữa yếu tố giáo dục và nghệ thuật. Những câu chuyện gần gũi về cuộc sống nông thôn, về tình yêu thiên nhiên, cùng các bài học sâu sắc về lòng nhân ái, đã góp phần làm phong phú thêm tâm hồn và giúp trẻ em phát triển một cách toàn diện. … Với tố chất đam mê văn chương và hay suy tư, dù ở đâu, đi đâu, đối với Thu Huê cũng là những trải nghiệm quý giá để tích lũy vốn sống …Đến với tản văn của Trần Thu Huê ta như được chiêm ngưỡng và thưởng thức bức tranh văn hóa đặc sắc của miền Tây Nam Bộ. Các tác phẩm không chỉ đơn thuần miêu tả thiên nhiên mà còn là những câu chuyện thấm đẫm tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về mảnh đất mà cô từng gắn bó như quê hương thứ hai của mình …
Cùng với văn xuôi, với thơ, nhận xét về Lục bát của Trần Huyền Tâm, Nguyễn Thị Toán có một cách tách nẩy với cách “Cảm - Luận - Bình” và gợi khơi khá nhiều cái nghĩ”giúp người viết tự nâng cao chính mình trên từng trang sáng tạo. Ví như: “Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể thơ lục bát không chỉ là hình thức nghệ thuật, mà còn là một biểu tượng văn hóa… Trong dòng chảy ấy, Trần Huyền Tâm xuất hiện với những bài thơ lục bát, mang theo một tiếng nói vừa quen vừa lạ: quen bởi hơi thở dân gian, lạ bởi chiều sâu triết lý và sắc thái tâm linh. Với tư cách một hiện tượng thơ lục bát đương đại, Lục bát Trần Huyền Tâm không chỉ tiếp nối mạch truyền thống, mà còn mở rộng biên độ biểu đạt của thể loại này ở cả bốn góc độ: hồn thơ, đề tài, tư tưởng và nghệ thuật thể hiện.… Nếu ca dao hướng đến sự tái hiện đời sống thường nhật, thì ở Trần Huyền Tâm, hồn quê đã được lãng mạn hóa, nâng lên thành miền hoài niệm”... “Điểm đặc biệt là Trần Huyền Tâm đã nối dài mạch dân gian bằng cách đưa vào đó cảm thức cá nhân. Quê hương không chỉ là không gian chung của cộng đồng, mà còn là ký ức riêng, là miền trở về tinh thần. Chính sự pha trộn ấy giúp thơ bà vượt khỏi sự sao chép ca dao, trở thành một sự tiếp biến sáng tạo…”(Đôi dòng cảm nhận về Lục bát Trần Huyền Tâm: Tiếng vọng của truyền thống và dòng chảy hiện đại).
Cảm nhận về tập thơ “Mùa Đợi” của Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Thị Toán với giọng điệu giàu cảm xúc của người soi nhìn cùng những “bắt mạch” cũng khá trúng và sâu. Ví như: “… Với Văn xuôi, Nguyễn Thuý Hằng có nhiều trang viết hấp dẫn bởi thế giới ngôn từ đẹp đẽ, ngọt ngào, thấm đẫm chất thơ, giầu hình ảnh, cảm xúc, có chiều sâu và cảm quan tích cực trong cách nhìn hiện thực. Nhưng với Thuý Hằng, thơ mới chính là phần tinh túy nhất, dạt dào nhất trong các sáng tác… Khát vọng tình yêu trong thơ Thúy Hằng thường mang tính triết lý, là khát vọng của tâm hồn trước sự mong manh của tình yêu, của kiếp người, như trong bài thơ "Ru cỏ," nơi tác giả gửi gắm tình yêu vào từng nhánh cỏ gầy mỏng manh, tượng trưng cho những mối tình dịu ngọt nhưng dễ tổn thương.
Rồi, đây là lời bình bài thơ “Đợi thu” của Bùi Thanh Huyền: “Đợi thu” của Bùi Thanh Huyền là một bức tranh lãng mạn đầy cảm xúc về mùa thu – mùa của tình yêu, nỗi nhớ và sự mong chờ. Qua từng câu chữ, tác giả không chỉ vẽ nên khung cảnh thiên nhiên mà còn khắc họa những cung bậc tình cảm sâu lắng, khắc khoải của con người trong dòng chảy thời gian….Đến với “Đợi thu” ta như đắm chìm trong bản giao hưởng Mùa Thu với giai điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, bâng khuâng, man mác buồn. Tác giả đã khéo léo sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi và cách biểu đạt tinh tế để bộc lộ cảm xúc bối rối trong trái tim người con gái với bộn bề rung động và suy tư trong tình yêu. Từ "chơi vơi", "bịn rịn" cho đến "hoang hoải", "bỏng dại" đều được dùng rất đắt vừa vẽ lên bức tranh thu đầy tâm trạng vừa điểm nhịp tâm hồn nhạy cảm của người thiếu nữ trong mỗi khoảnh khắc trôi đi của mùa thu ấy…
Vẫn là thơ với cách phẩm bình, ở “Phở, Bia Hơi & Lời Yêu Hà Nội,” Nguyễn Thị Toán viết: … “Phở, Bia Hơi & Lời Yêu Hà Nội” không chỉ đơn thuần là một tập thơ mà còn là một bức tranh đầy sắc màu về Hà Nội, một cuốn hồi ký cảm xúc về tình yêu và lòng tự hào về thủ đô yêu dấu. Mỗi bài thơ là một nhịp đập của trái tim tác giả, một lời nhắc nhở về những giá trị trường tồn của văn hóa Việt Nam. Tác phẩm không chỉ lay động lòng người mà còn đưa độc giả trở về với cội nguồn, với những gì giản dị nhất mà cũng thiêng liêng nhất. Đây thực sự là một tập thơ dành cho những ai yêu Hà Nội, yêu đất nước, và yêu cái đẹp dung dị của cuộc sống thường ngày…”
Bài cuối trong phần tiểu luận & phê bình văn học, Nguyễn Thị Toán viết về Trương Minh Hiếu, tác giả của ba tập thơ đã ra mắt bạn đọc. Người viết chọn bình một bài thơ mang tên: “Bố ơi, con làm mẹ rồi” với cái nghĩ xoay quanh cái trục “Vòng tuần hoàn của yêu thương và thời gian” Và Nguyễn Thị Toán, người phẩm bình, viết: …. “Bố ơi, con làm mẹ rồi.” … Bài thơ như dòng sông chảy ngược: từ khoảnh khắc hiện tại, ký ức ùa về thuở con còn thơ bé. Là những lần con ốm, bố lo âu xoa vầng trán nóng; là những chuyến bố đi công tác xa về, con bi bô gọi “bố à, bố ơi”; là bước chân chập chững ra phố phường, lời thương ngập ngừng… Hình ảnh cha dõi theo từng bước đời con vừa ấm áp vừa thấm thía: một đời nâng niu, một đời chở che.… Đọc xong, ta không chỉ thấy tình cha bao la, mà còn nhận ra vòng quay ấm áp của đời người: yêu thương được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, lặng lẽ mà bền bỉ như mạch nguồn không bao giờ cạn. Đây không chỉ là thơ tặng con gái, mà còn là lời tự sự của những người cha, người mẹ, khi chợt nhận ra mình đã đi qua nửa đời, và hạnh phúc lớn nhất là thấy con khôn lớn, trưởng thành, tiếp nối hành trình yêu thương.
“Hà Nội ngày con xa,” của Nguyễn Thị Toán với kết cấu: Phần sáng tác cùng những trang Lý luận Phê bình, các trang “Nguyễn Thị Toán - Nhà văn – Và, tác phẩm” … Ba điểm phát lộ ấy, cùng nhiều góc chiếu soi và hội tụ, đủ làm sáng lên Nguyễn Thị Toán – Một nữ Văn, Thi sĩ – Một chân dung dáng vẻ giàu nồng đượm, tin yêu - Một tâm hồn đáng nâng niu, trân trọng mang chiều sâu ở cả hai chiều “Cảm nhận và Tư duy” trong thăng hoa, trong kết tinh, phát sáng.
Hà Nội, những ngày thu 2025
K.C
“HÀ NỘI NGÀY CON XA” MỘT NĂNG LƯỢNG CHUYỂN HÓA VÀ KẾT TINH
GIỮA CẢM RUNG & CHIỀU SÂU SUY NGẪM
Nhà thơ KIM CHUÔNG
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình
Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Thái Bình
Trong đội ngũ “Các Nhà văn Nhóm Búp,” trong hai trăm gương mặt đi qua “Lớp Đào tạo, Bồi dưỡng các em thiếu nhi ở Thái Bình có năng khiếu sáng tác Văn học từ những năm 1976 – 1990, thi sĩ Nguyễn Thị Toán, đã sớm dội một tiếng vang vào bầu trời văn chương tuổi thơ trên một vùng quê lúa với bài thơ nổi tiếng, mang tên “Cháu hỏi Ông”. Bài thơ là một “mặt trời riêng”, một bài “thơ Quả núi” mà các bậc Thầy: Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Võ Quảng, Phong Thu… và tôi, trong bài phẩm bình đăng trên các báo, đã thật mừng xếp cho Toán ngự ở một “chiếu thơ cao”.
Nguyễn Thị Toán đã sớm bộc lộ giọng điệu riêng, giọng điệu giàu ảnh hình, suy ngẫm, giọng điệu mang sức nặng của chiều sâu về một kiếp nhân sinh, với “tự thức” và “tự vấn” thế này: Ông ơi vì sao /Giọt nước biển quê mình mặn chát /Chẳng khác giọt mồ hôi và nước mắt /Của bao người đổ ra? Rồi: Ông trầm ngâm nhớ lại thuở xưa xa /Nỗi buồn hiện lên mặt ông /nếp nhăn nhiều như mắt lưới …
Vâng. Những dòng thơ trên đây mà Nguyễn Thị Toán, cô bé mới 11 – 12 tuổi đầu còn bé xíu đã “khác người” là không cậy nhờ vào khách thể, không cậy nhờ vào mắt nhìn, mà tự đem hồn mình ra “Làm một thế giới” để tung hoành xới cày, để tìm lấy “Cái Biết” trong thơ.
Có một vệt đậm trong thơ Nguyễn Thị Toán luôn hướng về suy tư, triết thuyết, đi từ thuở ấu thơ cho tới mãi dài dặc đường tìm. Đây là cái tạng, hay sở trường, hay đấy là “Cái Có” của riêng Toán, ở một người cầm bút ?
Trên thực tế, Cảm xúc làm cho thơ dễ cuốn say, quyến rũ. Nghĩ suy, dễ đem đến cho thơ một nguồn mở mang chiều sâu của một cõi tâm linh.
Sau ba bốn năm trời theo học “Lớp năng khiếu sáng tác văn học ở Thái Bình,” Nguyễn Thị Toán bước vào Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội rồi làm Phóng viên Báo, làm cô giáo dạy văn có nhiều học sinh giỏi Quốc gia ở một trường Trung học Phổ thông trên cao nguyên Đăk Lăk.
Cả một đời tâm huyết, gắn bó và hiến dâng cho “Sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp trồng người” nhưng, trái tim thi sĩ mà Nguyễn Thị Toán được ông trời phú cho, đã không chút yên bình. Năm tháng – cuộc đời, tất cả những gì có từ con mắt ta nhìn, con tim ta cảm nhận, cái óc ta ngẫm suy… luôn hóa thành nguồn chảy, nguồn chắt lắng của phù sa và muối mặn dồn xô trong Toán, luôn hóa thành ngữ ngôn của văn chương được hiện hình trên trang viết qua những trầm tích thời gian.
Điều khẳng định xanh rờn trên cõi ba sinh này, Nguyễn Thị Toán được đẻ ra từ gốc rễ của “cái kiếp? Hay, cái nghiệp văn chương” luôn níu bám, dày vò. luôn nặng đầy tâm sự, luôn cần được sẻ chia, giải thoát của khoảng trống, của bao nhiêu vỉa tầng từ hai chiều “Hiện thực ngoài Ta – Và, Hiện thực Hồn Ta” đang vang lên tiếng gọi …
Vâng! Căn nguyên là đấy! Để rồi, từ đấy - cả đời một Nhà giáo đã nối vào đời một “Văn Thi sĩ” với tập Thơ và Văn xuôi : “Nơi thao thiết những vòm xanh.” (NXB Hội Nhà văn 2021).
Là người Thầy văn chương, đọc và theo dõi Thi sĩ này từ thi phẩm đầu tiên xuất hiện - Tôi hiểu và hào hứng viết về “Nơi thao thiết những vòm xanh” của Nguyễn Thị Toán, khi ấn phẩm vừa mới ra đời. Càng vui mừng hơn, khi mùa thu 2025, sau bốn năm lặng lẽ xới cày, “Hà Nội Ngày con xa” (Tập sách thứ hai, tập văn chương mới nhất, với thơ và tiểu luận phê bình văn học) Thi sĩ Nguyễn Thị Toán vẫn tô đậm và nối dài trên mạch nguồn và thế mạnh vốn có của mình.
Với thơ. Nguyễn Thị Toán vẫn biểu hiện cái lung linh, lấp lánh, cái đáng nói có từ năng lượng khá dồi dào trước mạch nguồn suy tưởng.
Dễ thấy, Nguyễn Thị Toán là Nhà giáo – Thi sĩ, Người hiền thảo hiếu đễ, Người luôn đề cao đạo lý, nhuần thấm cơn mưa móc trên đời về công lao dưỡng dục, sinh thành trước song thân, trước công cha, nghĩa mẹ.
Trên nhiều trang viết, Nguyễn Thị Toán quan tâm đến nhiều đề tài, như thiên nhiên, nhà trường, bạn bầu, cháu con, người lính ... Nhưng, hình như, cứ chạm vào nghĩa “phụ mẫu tình thâm,” chạm vào hình ảnh mẹ cha, là Nguyễn Thị Toán lại run rẩy, lại mềm đi, lại rơi vào vực xoáy của cái Cảm. Lại đắm chìm vào nhiều tầng quặn thắt của suy tư. Và những câu thơ gan ruột lại ứa trào, tuôn chảy như không có điểm dừng. Những câu thơ dễ làm người đọc rưng rưng, khó cầm nước mắt. Ví như bài thơ viết tặng các chị các bạn có những người mẹ, người cha hy sinh trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ:
Mẹ ơi!
Có thể là Cha đang yên giấc
Giữa một mảnh vườn rợp bóng cây xanh
Bên dòng sông, con suối hiền lành
Có thể Cha con vừa chợp ngủ
Trên đường hành quân xuyên rừng ra mặt trận
Tay ôm gốc cây già bị đạn pháo nứt toang
Mặt đất cày loang lổ những vết thương…(Mẹ ơi)
Hay đây là, những câu thơ “Viết tặng cha mẹ mùa Vu Lan” báo hiếu: “Cha Mẹ ơi!Nhà Phật dạy phải an nhiên tĩnh tại/ Xuân đến, xuân đi cũng là lẽ thường tình …/Cha Mẹ an nhiên là con cái yên lòng/Con sẽ lại về một ngày không xa nữa/Ngắm dòng sông Tô êm đềm trước cửa/Ngắm mưa ngâu và những ngọn đèn vàng/Chẳng cơm nào thơm bằng cơm mẹ nấu/ Có trà nào ngọt bằng nước mẹ đun…”
Chi tiết cụ thể, thi liệu thơ được cụ thể hóa ở “Sông Tô trước cửa, với cơn mưa ngâu, với ngọn đèn vàng”. Rồi hình ảnh: “Chẳng cơm nào thơm bằng cơm mẹ nấu/ Có trà nào ngọt bằng nước mẹ đun” ... đã đem đến sức chinh phục từ cái thực, cái chân thực, cái yếu tố của một thi pháp “Thơ Thi nhãn”, Thơ diện kiến, ngắm nhìn.
Cùng hướng tiếp cận, đánh thức này, người đọc còn gặp cái xúc động chân thành, chân mộc từ hình ảnh một “Chén trà của cha” trong sâu xa cảm nhận:
Con nâng trên tay nóng hổi chén trà
Khói mỏng quàng qua vai
như bàn tay cha ngày cũ…
…Giọng cha trầm,
nhẫn nại như đất quê ta,
đằm như tiếng mưa vào lòng đất ải…
Viết về Cha, về Mẹ, thơ Nguyễn Thị Toán như cơ hồ dòng chảy, đang buổi triều dâng, luôn muốn vỡ ra… mang hơi thở của trường ca, mạnh mẽ dâng trào ở hai chiều “Sinh – Khí”.
Bài thơ “Mẹ tôi” hay “Hà Nội, ngày con xa” cũng vậy. Thơ? Hay đấy là tiếng lòng người thơ giống như mặt sông phơi hết mình trong nắng. Đáng chú ý ở những bài thơ này, hình ảnh thơ luôn đạt tới sức điển hình hóa, cụ thể hóa và trở về cái ấn tượng có được ở sự “cá thế hóa” nữa.
Hãy đọc: Mẹ ơi/ Sáng nay con xa Hà Nội/lá bàng rụng bay bay trên phố/như bàn tay nhỏ vẫy chào …/Con xa rồi/Hà Nội mùa vẫn tiếp mùa trôi …/Chỉ ký ức là ngưng đọng lại/từ ngày cha khuất xa/chiếc bàn trà mồ côi/trang sách buồn không mở/mắt mẹ mãi nhìn căn phòng khép cửa/như thể chỉ cần kiên nhẫn chờ /là cha sẽ bước ra …
Có lẽ, đi từ góc hồn trong xanh để trụ về phía dài rộng, trong xanh hơn nữa, Thơ Nguyễn Thị Toán luôn mang về vẻ Cao sang và Đẹp: “Thơ không bụi bặm, phá phách, xô bồ. Thơ của hồn thơ ngụp lặn trong nồng đượm, yêu thương, mát ngọt. Thơ của cái Cảm bùng nổ cho cái Nghĩ phát lộ, nương nhờ. Thơ đẻ ra từ cõi hồn đã bay lên, đã tinh lọc. Đã lắng. Đã đem về cái tinh khiết hương Sen, qua xa khuất ánh Bùn…”(*)
Trên hai chiều Cảm xúc mạnh và Tư duy sâu, Thơ Nguyễn Thị Toán luôn trụ vững và bay lên từ đôi cánh vẫy vùng và thăng hoa ấy.
Trước hết và sau cùng, thơ Nguyễn Thị Toán vẫn là thơ của thi sĩ giàu rung cảm, yêu thương và lắng chắt. Những câu thơ vía hồn này không gì khác, đấy là thơ của con tim luôn cháy lên từ bao nhiêu đượm nồng, day trở.
Ví như, đây là Nguyễn Thị Toán trước một “Giấc mơ xưa”: Thêm một lần em xa Hà Nội/Sao dùng dằng, không ngớt mãi, mưa ơi! Mưa thầm thì như lời từ biệt/của mùa hè năm ấy, thuở xa xôi…/Sẽ còn mãi trong em màu phượng đỏ/Hàng cây bên hồ gió lộng, tiếng ve ran/Mối tình đầu như vệt sao sáng mãi /Một khoảng trời ký ức của riêng em!
Hoặc, trước một đêm biển thức: Chỉ còn em thao thức với biển thôi/ Biển vô tận, vô biên biết khi nào ngừng lặng!/Ai có còn xót xa bờ vai mảnh/Thương bến buồn chờ mãi cánh buồm mơ? (Biển đêm)
Đấy là thơ - qua đối thoại với thiên nhiên rộng lớn. Còn khi quay về tuổi thơ, viết tặng cháu con mình, thơ Nguyễn Thị Toán cũng khá tinh tế, khá tươi vui, ngộ nghĩnh: Cái mũi xinh bé tẹo/Chỉ má là bầu thôi/Răng thì vô kỷ luật/Mọc nghiêng đến buồn cười/Tóc mây màu hạt dẻ/Mềm như sợi tơ trời/Ôm em thơm mái tóc /Hạnh phúc nhất trên đời! (Tặng cháu Judy yêu quý). Rồi, đây là thơ viết tặng bé Shu: Shu tập làm ca sĩ/Cũng phiêu “như đúng rồi”/Mắt nhắm tít yêu lắm/Miệng ư... a... không lời…
Cân bằng trên hai vế khơi tìm, giao hòa và biến hóa ở hai chiều “Cảm rung và sức nghĩ”, Thơ Nguyễn Thị Toán đi vững trên nền thơ ấy. Bài thơ “Đi dọc miền Trung, Mẹ ơi, Chén trà của cha, Hà Nội ngày con xa” … rồi, thơ viết về Phú nghĩa, về Hồ Lắc, về miền Đông, miền Tây Nam bộ… Thơ Nguyễn Thị Toán biểu hiện sự phong lưu, trường sức, sự phồn sinh, giàu có ở ảnh hình, thi liệu, sự không cùng của nguồn khơi luôn lóe sáng, gọi mời trong hồn thơ thi sĩ.
Ở phần II tập sách “Hà Nội ngày con xa” Nguyễn Thị Toán đã tập hợp giới thiệu những trang viết bao gồm những bài Nghiên cứu, Phê bình văn học. Những trang viết này, bộc lộ một năng lực khác, năng lực của người có “Con mắt xanh” có khả năng thẩm thấu, mổ xẻ những gì thuộc về thi pháp trên trang viết.
Trong các “Nhà văn Nhóm Búp,” cùng với Trần Huyền Tâm, Bùi Thị Biên Linh, Đào Thanh Bình, Lã Thị Bắc Lý…, Nguyễn Thị Toán là tác giả có khá nhiều đóng góp ở các bài giới thiệu thơ, giới thiệu chân dung văn học. Trên lĩnh vực tiếp cận văn bản, cảm nhận và phẩm bình, Nguyễn Thị Toán bộc lộ những nét mạnh và riêng của nhà văn, người trực tiếp cầm bút sáng tác.
Với phương pháp giải mã: “Bắt nhập - Hòa đồng – Sẻ chia – Và mổ xẻ tác phẩm.”- Yếu tố này, phẩm chất này làm nên Con mắt - với Con tim - với “cái thần” của người viết qua từng dòng “Cảm luận”.
Ví như, đây là nhận xét về Tiểu thuyết “Lính Miền Đông" của Bùi Thị Biên Linh: “Nếu "Dấu chân người lính" (1972) của nhà văn Nguyễn Minh Châu dựng lên chân dung lãng mạn và hào hùng của những người lính mang cả thanh xuân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, thì “Lính Miền Đông” của Bùi Thị Biên Linh đã tái hiện với một quy mô lớn bức tranh hiện thực chiến trường Miền Đông (Miền đất đỏ Bazan kéo dài từ Nam Tây nguyên nơi có những cánh rừng bạt ngàn dựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ”… “Không gian nghệ thuật của tác phẩm, thế giới nhân vật được mở rộng … Nhân vật của “Lính Miền Đông” được tác giả miêu tả linh hoạt, có khi là một cách đầy đặn với đầy đủ chân dung, tính cách, số phận … Có khi chỉ là phác họa đôi ba nét về ngoại hình hoặc sở thích, nhưng vẫn gây được ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi sự riêng biệt, độc đáo khó lẫn….Bùi Thị Biên Linh đã kết hợp nhuần nhuyễn chất sử thi và cảm hứng lãng mạn, bám sát hiện thực, xâu chuỗi những sự kiện lịch sử một cách chặt chẽ và khéo léo tạo nên mạch truyện thống nhất đầy cuốn hút”
Đấy là nhận xét về Bùi Biên Linh, còn với văn xuôi của Trần Thu Huê qua tuyển tập truyện, ký “Những ngày tươi đẹp”, Nguyễn Thị Toán viết: “Có thể nói các sáng tác thuộc thể loại truyện đồng thoại và văn miêu tả của Trần Thu Huê ở thời tuy còn là “Búp trên cành” song đã rất “già dặn” trong tư tưởng và bút pháp, mang đậm chất nhân văn, đồng thời kết hợp hài hòa giữa yếu tố giáo dục và nghệ thuật. Những câu chuyện gần gũi về cuộc sống nông thôn, về tình yêu thiên nhiên, cùng các bài học sâu sắc về lòng nhân ái, đã góp phần làm phong phú thêm tâm hồn và giúp trẻ em phát triển một cách toàn diện. … Với tố chất đam mê văn chương và hay suy tư, dù ở đâu, đi đâu, đối với Thu Huê cũng là những trải nghiệm quý giá để tích lũy vốn sống …Đến với tản văn của Trần Thu Huê ta như được chiêm ngưỡng và thưởng thức bức tranh văn hóa đặc sắc của miền Tây Nam Bộ. Các tác phẩm không chỉ đơn thuần miêu tả thiên nhiên mà còn là những câu chuyện thấm đẫm tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về mảnh đất mà cô từng gắn bó như quê hương thứ hai của mình …
Cùng với văn xuôi, với thơ, nhận xét về Lục bát của Trần Huyền Tâm, Nguyễn Thị Toán có một cách tách nẩy với cách “Cảm - Luận - Bình” và gợi khơi khá nhiều cái nghĩ”giúp người viết tự nâng cao chính mình trên từng trang sáng tạo. Ví như: “Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể thơ lục bát không chỉ là hình thức nghệ thuật, mà còn là một biểu tượng văn hóa… Trong dòng chảy ấy, Trần Huyền Tâm xuất hiện với những bài thơ lục bát, mang theo một tiếng nói vừa quen vừa lạ: quen bởi hơi thở dân gian, lạ bởi chiều sâu triết lý và sắc thái tâm linh. Với tư cách một hiện tượng thơ lục bát đương đại, Lục bát Trần Huyền Tâm không chỉ tiếp nối mạch truyền thống, mà còn mở rộng biên độ biểu đạt của thể loại này ở cả bốn góc độ: hồn thơ, đề tài, tư tưởng và nghệ thuật thể hiện.… Nếu ca dao hướng đến sự tái hiện đời sống thường nhật, thì ở Trần Huyền Tâm, hồn quê đã được lãng mạn hóa, nâng lên thành miền hoài niệm”... “Điểm đặc biệt là Trần Huyền Tâm đã nối dài mạch dân gian bằng cách đưa vào đó cảm thức cá nhân. Quê hương không chỉ là không gian chung của cộng đồng, mà còn là ký ức riêng, là miền trở về tinh thần. Chính sự pha trộn ấy giúp thơ bà vượt khỏi sự sao chép ca dao, trở thành một sự tiếp biến sáng tạo…”(Đôi dòng cảm nhận về Lục bát Trần Huyền Tâm: Tiếng vọng của truyền thống và dòng chảy hiện đại).
Cảm nhận về tập thơ “Mùa Đợi” của Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Thị Toán với giọng điệu giàu cảm xúc của người soi nhìn cùng những “bắt mạch” cũng khá trúng và sâu. Ví như: “… Với Văn xuôi, Nguyễn Thuý Hằng có nhiều trang viết hấp dẫn bởi thế giới ngôn từ đẹp đẽ, ngọt ngào, thấm đẫm chất thơ, giầu hình ảnh, cảm xúc, có chiều sâu và cảm quan tích cực trong cách nhìn hiện thực. Nhưng với Thuý Hằng, thơ mới chính là phần tinh túy nhất, dạt dào nhất trong các sáng tác… Khát vọng tình yêu trong thơ Thúy Hằng thường mang tính triết lý, là khát vọng của tâm hồn trước sự mong manh của tình yêu, của kiếp người, như trong bài thơ "Ru cỏ," nơi tác giả gửi gắm tình yêu vào từng nhánh cỏ gầy mỏng manh, tượng trưng cho những mối tình dịu ngọt nhưng dễ tổn thương.
Rồi, đây là lời bình bài thơ “Đợi thu” của Bùi Thanh Huyền: “Đợi thu” của Bùi Thanh Huyền là một bức tranh lãng mạn đầy cảm xúc về mùa thu – mùa của tình yêu, nỗi nhớ và sự mong chờ. Qua từng câu chữ, tác giả không chỉ vẽ nên khung cảnh thiên nhiên mà còn khắc họa những cung bậc tình cảm sâu lắng, khắc khoải của con người trong dòng chảy thời gian….Đến với “Đợi thu” ta như đắm chìm trong bản giao hưởng Mùa Thu với giai điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, bâng khuâng, man mác buồn. Tác giả đã khéo léo sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi và cách biểu đạt tinh tế để bộc lộ cảm xúc bối rối trong trái tim người con gái với bộn bề rung động và suy tư trong tình yêu. Từ "chơi vơi", "bịn rịn" cho đến "hoang hoải", "bỏng dại" đều được dùng rất đắt vừa vẽ lên bức tranh thu đầy tâm trạng vừa điểm nhịp tâm hồn nhạy cảm của người thiếu nữ trong mỗi khoảnh khắc trôi đi của mùa thu ấy…
Vẫn là thơ với cách phẩm bình, ở “Phở, Bia Hơi & Lời Yêu Hà Nội,” Nguyễn Thị Toán viết: … “Phở, Bia Hơi & Lời Yêu Hà Nội” không chỉ đơn thuần là một tập thơ mà còn là một bức tranh đầy sắc màu về Hà Nội, một cuốn hồi ký cảm xúc về tình yêu và lòng tự hào về thủ đô yêu dấu. Mỗi bài thơ là một nhịp đập của trái tim tác giả, một lời nhắc nhở về những giá trị trường tồn của văn hóa Việt Nam. Tác phẩm không chỉ lay động lòng người mà còn đưa độc giả trở về với cội nguồn, với những gì giản dị nhất mà cũng thiêng liêng nhất. Đây thực sự là một tập thơ dành cho những ai yêu Hà Nội, yêu đất nước, và yêu cái đẹp dung dị của cuộc sống thường ngày…”
Bài cuối trong phần tiểu luận & phê bình văn học, Nguyễn Thị Toán viết về Trương Minh Hiếu, tác giả của ba tập thơ đã ra mắt bạn đọc. Người viết chọn bình một bài thơ mang tên: “Bố ơi, con làm mẹ rồi” với cái nghĩ xoay quanh cái trục “Vòng tuần hoàn của yêu thương và thời gian” Và Nguyễn Thị Toán, người phẩm bình, viết: …. “Bố ơi, con làm mẹ rồi.” … Bài thơ như dòng sông chảy ngược: từ khoảnh khắc hiện tại, ký ức ùa về thuở con còn thơ bé. Là những lần con ốm, bố lo âu xoa vầng trán nóng; là những chuyến bố đi công tác xa về, con bi bô gọi “bố à, bố ơi”; là bước chân chập chững ra phố phường, lời thương ngập ngừng… Hình ảnh cha dõi theo từng bước đời con vừa ấm áp vừa thấm thía: một đời nâng niu, một đời chở che.… Đọc xong, ta không chỉ thấy tình cha bao la, mà còn nhận ra vòng quay ấm áp của đời người: yêu thương được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, lặng lẽ mà bền bỉ như mạch nguồn không bao giờ cạn. Đây không chỉ là thơ tặng con gái, mà còn là lời tự sự của những người cha, người mẹ, khi chợt nhận ra mình đã đi qua nửa đời, và hạnh phúc lớn nhất là thấy con khôn lớn, trưởng thành, tiếp nối hành trình yêu thương.
“Hà Nội ngày con xa,” của Nguyễn Thị Toán với kết cấu: Phần sáng tác cùng những trang Lý luận Phê bình, các trang “Nguyễn Thị Toán - Nhà văn – Và, tác phẩm” … Ba điểm phát lộ ấy, cùng nhiều góc chiếu soi và hội tụ, đủ làm sáng lên Nguyễn Thị Toán – Một nữ Văn, Thi sĩ – Một chân dung dáng vẻ giàu nồng đượm, tin yêu - Một tâm hồn đáng nâng niu, trân trọng mang chiều sâu ở cả hai chiều “Cảm nhận và Tư duy” trong thăng hoa, trong kết tinh, phát sáng.
Hà Nội, những ngày thu 2025
K.C