Đức khoan dung từ ái thiện lương

Đức khoan dung từ ái thiện lương
Người xưa dạy rằng: Con người cần hành thiện, tích Đức. Đức là những phẩm cách tốt đẹp của con người. Thiện mỹ, chính đại quang minh, trong sáng. Có Đức mặc sức mà ăn. Mất Đức là mất tất cả.


(Ảnh: Tranh Sen của Đặng Phương Việt)

ĐỨC KHOAN DUNG TỪ ÁI THIỆN LƯƠNG


Người xưa dạy rằng: Con người cần hành thiện, tích Đức. Đức là những phẩm cách tốt đẹp của con người. Thiện mỹ, chính đại quang minh, trong sáng. Có Đức mặc sức mà ăn. Mất Đức là mất tất cả. Chữ Đức trong tiếng Trung có chứa đựng thiên cơ vạn cổ, nhìn vào Đức có thể thấy được quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhà Búp xin được tiếp tục giới thiệu với các bạn độc giả bài viết về "Chữ Đức trong văn hóa thần truyền" của tác giả La Vinh. 


 


2/ Quan hệ giữa chữ Đức với chữ NHÂN. 


Trong rất nhiều phẩm chất của Đức, có lẽ chữ Nhân (yêu thương, quan tâm người  khác) là cái Đức mà chúng ta thường nhắc đến. 


NHÂN được định nghĩa là "Đức khoan dung, từ ái, thiện lương." 


Trong"Luận Ngữ" 論語: "Tử Trương vấn nhân ư Khổng Tử. Khổng Tử viết: năng hành ngũ giả ư thiên hạ vi nhân hĩ. Thỉnh vấn chi, viết: cung, khoan, tín, mẫn, huệ" 子張問仁於孔子. 孔子曰: 能行五者於天下為仁矣. 請問之, 曰: 恭, 寬, 信, 敏, 惠 (Dương Hoá 陽貨)


Có thể dịch "Tử Trương hỏi Khổng Tử về Đức Nhân. Khổng Tử đáp: Làm được năm Đức trong thiên hạ thì gọi là Nhân. (Tử Trương) xin hỏi là những Đức gì, Khổng Tử đáp: Cung kính, khoan hậu, tín nghĩa, cần mẫn và từ ái".

Khổng Tử từng nói với Tăng Sâm là học trò của mình : “Học thức của Tử Hạ đề cao rất nhanh vì anh ta thích ở với người nhân đức."Do đó nói rằng, ở gần với thiện nhân, thì như thể sống trong một ngôi nhà đầy hoa trái thơm hương. Khi thời gian qua đi, người ta sẽ ảnh hưởng và đồng hóa. Thành thử, bậc quân tử phải chọn lựa kỹ càng người ở bên cạnh phò tá mình.


Đức Khổng cũng  nói: “Lý nhân vi mỹ, trạch bất xử nhân, yên đắc trí?” (Nơi có Đức Nhân thì tốt đẹp, chọn lựa ở nơi không có Nhân, sao được gọi là sáng suốt?) 


Như vậy, con người sinh sống ở nơi nào có nhiều người nhân đức thì mới là tốt đẹp nhất. Nếu như con người không thể tìm được nơi nhân đức cho bản thân cư ngụ, làm sao có thể nói là có trí tuệ được đây?


 Khổng Tử lại nói: “Trí giả lợi nhân” (người có trí tuệ vận dụng Nhân Đức), ý nói rằng một người có trí tuệ sẽ biết truy cầu Nhân Đức, khiến bản thân luôn hành xử Nhân Đức, từ đó mới có thể đạt được mục đích.


3/ Quan hệ với THIỆN. 


Đức có quan hệ tới chữ Thiện vốn là đặc trưng của Phật Gia. Trên thân chữ Thiện có một cành lộc nõn là Nhân mà chúng ta vừa nói. Tuy nhiên, Thiện là quan tâm tới người khác, là phó xuất được tâm Từ Bi, lấy khổ làm vui để trả nợ thế gian. Đúng ra là trả nợ cho chính mình. 


Phật gia coi Đức chính là hành động Thiện, lời nói Thiện, suy nghĩ Thiện... để từ đó có được sự từ bi, hỷ xả, mang điều tốt đẹp đến cho mọi người. Trong luân hồi,  có sự nối tiếp nhân quả của Đức từ tiền kiếp trong quá khứ. Vì vậy mới có lời khuyên rằng: Ăn ở hiền lành để Đức cho con; hoặc có lời răn: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước...Đức Phật Thích Ca có ba Đức là Bi Đức, Trí Đức và Tịnh Đức. Trong đó, Bi Đức là tình thương bao la, là lòng trắc ẩn; Trí Đức là trí tuệ cao khó có gì sánh bằng; Tịnh Đức là dù ở trước mặt hay sau lưng thì tâm Phật đều vậy, không đổi thay. Như thế, tình thương, trí tuệ và sự chân thật ở con người là cốt lõi của Đức.


4/ Quan hệ với chữ  CHÂN,THÍNH


Chữ  ĐỨC rất dễ liên tưởng tới chữ CHÂN. Trong các bức Thư Pháp người ta cố ý dựng chữ TỨ thành chữ MỤC, cách điệu chữ TÂM ở dưới cùng để ta vừa nhìn được chữ Tâm vừa liên tưởng tới chữ Nhân. Và ta dễ dàng nhận ra chữ Chân. Một chữ thông qua tài năng của nghệ sĩ thư pháp mà người ta có thế đọc được cả hai chữ với những liên hệ đa chiều nhiều thú vị. Như vậy Đức và Chân có sự ăn thông với nhau về tư tưởng trong quan niệm của người xưa. 


Vì bộ phận bên phải rất giống với chữ THÍNH (trong Thính giả) nên người có Đức là người biết lắng nghe. Trong nghĩa gốc thì THÍNH là ông Vua biết dùng Tai của mình, chăm chú lắng nghe những điều trong thiên hạ bằng trái tim chính trực và nhân đức; không gì không quan tâm, không gì bỏ sót ; từ chuyện quốc kế dân sinh; chuyện tồn vong của dân tộc đến những chuyện thỏn mỏn như  cây kim sợi chỉ của dân đen, con đỏ.


Còn có người thì giải thích theo chiều hướng ngược lại. Chủ thể của Thính (nghe) ở đây không phải là vua mà lại là thần dân với vua. Đó là thái độ tôn trọng, chăm chú lắng nghe lời của Vua ở các quần thần trong triều. Phải có Đức lớn, có lòng chính trực, lòng trung tuyệt đối với bề trên mới có thể nghe những lời vàng ngọc của Thiên Tử (con Trời). Cũng nên nhớ rằng, do chúng ta bài xích chế độ Phong kiến nên nói tới Vua là  định kiến, là phủ nhận. Thực ra tương ứng với một thời kỳ văn minh sẽ có một hình thái xã hội phù hợp. Những minh quân như Đường Thái Tông,như Lý Nhân Tông,Trần Nhân Tông...chẳng phải thương dân như con đó sao?


Ngay thời nay, những nước theo quân chủ lập hiến như Nhật, Thái, Anh và một số nước Bắc Âu, dân chúng rất tôn trọng vị vua của họ. Cái chính là Đạo đức và tài năng , sự mẫu mực của họ cũng xứng đáng được tôn trọng. 


THÍNH có thể nói về thái độ lắng nghe những điều chính TRỰC của người này với người kia như thái độ của Trung thần với hoàng thượng của họ vậy.



5/CHỮ ĐỨC TRONG THƯ PHÁP  

(Lời bình cho bức thư pháp viết chữ Đức)
 

Cách chơi chữ của người xưa là một thứ nghệ thuật. Chỉ có thứ chữ Thánh Hiền này mới có cách tiếp cận, biểu hiện mang đậm sắc thái tính cách và thông điệp  về nhân sinh, về, thế giới quan, vũ trụ quan của cá nhân.
 

Chữ Đức ở đây không còn là chữ Đức nguyên sơ nữa. Phần bên phải là chữ HÀNH đã không còn. Chữ NHẤT không có đè chữ TÂM mà đã đứng thẳng thành chữ TRỰC ngạo nghễ. Chữ TÂM thiếu dấu chấm, gợi cho người ta sự cách điệu tung hoành phóng khoáng của chữ NHÂN.
 

Không  có chữ Hành nhưng với cấu trúc đặc trưng này,ta nhận diện ra chữ Đức. Nó còn cho ta liên tưởng tới 2 chữ mà người viết rất tự hào : CHÂN & TRỰC.
 

Phụ trợ cho một chữ lớn là một đám con cháu to nhỏ lít nhít. Những chữ rõ nhất là TÍCH KIM TÀI, VÔ, BẤT, TRƯỜNG KẾ...
 

Tự bản thân những chữ " tiểu nhân" này đã làm cho chữ Đức trở thành trượng phu, quân tử..
 

 Cho mình tán, có lẽ đến mai.
 

 Mình yêu chữ Hán bởi nó là chữ Thần truyền. Nó ra đời ở một vùng gọi là Thần Châu...
 

 Hầu hết các con chữ của nó phân tích, tổng hợp; liên tưởng theo chiều tương đồng hay tiếp cận đều cho ta được giác ngộ, đều cho ta thấy nội hàm thâm sâu.
 

 Đặc biệt, là những bức tranh chữ của những nhà thư pháp.
 

Chữ là người, là Thần, là chuyên chở đạo đức. Và trong chiều sâu thăm thẳm, nó là Đạo. Nó giúp ta kính ngưỡng Thần, biết chế ước tự thân làm cơ sở để tránh cho nhân loại tiểu kiếp, đại kiếp và... tận thế.


(Còn nữa)