- Lý luận - Phê bình
Lục bát Trương Minh Hiếu: Thảnh thơi dạo khúc tâm an ru mình
Thứ hai - 08/09/2025 18:18
LỤC BÁT TRƯƠNG MINH HIẾU: THẢNH THƠI DẠO KHÚC TÂM AN RU MÌNH
(Trần Huyền Tâm)
Tôi đọc “Ru mình” của Trương Minh Hiếu trong một ngày người Hà Nội thêm một lần chứng kiến sự “trở mặt” nhanh như chớp của thời tiết. Đang là tháng 7. Trời xanh trong và nắng đẹp như mơ. Bỗng chốc mây đen kéo đến giăng kín mọi ngả. Và cuồng phong nổi lên. Trong giây lát mọi thứ đều thay đổi. Có cảm giác như bây giờ cái mưa, cái gió đã quá tự tin vào sức trai trường hạ của mình nên tỏ ra rất hung hãn và uy lực. Gió quẩy tung, hung hăng, quăng quật khắp nơi. Gió xé nát tấm bạt che chậu cây ngoài ban công. Gió xô hàng cây, tuốt hết lũ quả non đang chờ ngày được chín. Mưa như xối nước xuống mái hiên, hàng rào. Mưa ào ạt đổ xuống sân, vườn, tràn qua mặt đường. Mưa như tát, như vả vào những chiếc lá me non đang nép mình dưới mấy chùm hoa giấy ướt nhẹp. Nhìn đâu cũng thấy mưa gió tấp tới, âm u và xám xịt. Mưa gió như cố tình chọc tức, trêu ngươi một người (là tôi) đang ngồi bình thản bên cửa sổ, mê mẩn với “Ru mình”. Thú thực là từ lúc đọc tập thơ thứ ba của Hiếu, tôi như đã quên bẵng cảnh đất trời đang bị mưa gió gằn hắt ngoài kia. Tôi đằm mình vào những câu thơ lục bát dịu ngọt và sâu lắng của Hiếu. Những câu thơ mềm như lụa, như nước đang dìu tôi đi trong hoài niệm. Tôi nhớ về những năm tháng tuổi thơ đầy ắp kỷ niệm, với những chuyến đi thực tế sáng tác, những cánh đồng lúa vàng đầy nắng tháng 6 ở Quỳnh Trang, về trận mưa rào đầu mùa vui như tết của lũ trẻ trâu ở Quảng Nạp, về con sóng dịu dàng ở bãi biển Đồng Châu hay làng vườn Thuận Vy đậm đầy hương sắc phù sa…. nơi mà tôi và Hiếu từng có những trải nghiệm khó quên khi còn là những môn sinh trong vườn ươm - Lớp Búp trên cành - do Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình tổ chức vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước. Nửa thế kỷ sắp trôi qua với những góp gom hoài niệm, những ấp ủ hoài bão, những đắm say và mơ ước cháy lòng…
Tôi đã đọc tập thơ “Ru mình” của Trương Minh Hiếu trong tâm thái như thế. Đọc liền một mạch. Và không chỉ một lần. Đọc trong vô biên xúc cảm dạt dào và nỗi niềm tâm sự. Bồi hồi và sâu sắc. Lắng đọng và sẻ chia. Tự hào và vui sướng. Bởi, tôi đang được tận mắt chứng kiến sự thăng hoa đầy ngưỡng mộ của một thành viên Nhà Búp, của một trái tim đầy ắp yêu thương, của một tâm hồn đam mê với văn học nghệ thuật, của một tài năng đang tươi tắn xuân thì và roi rói niềm tin hy vọng. Gần nửa thế kỷ say mê sáng tác, với xúc cảm thăng hoa, với hiện thực hòa quyện, được chắt lọc từ nguồn mạch thi ca thanh mát, người thơ Trương Minh Hiếu đã tạo nên những mốc son đáng nhớ trong hành trình trở về của mình: Trong thời gian chưa đầy 2 năm, Hiếu đã cho ra mắt 3 tập thơ dầy dặn, với gần 200 bài thơ, bài nào cũng hay, cũng đậm đầy cảm xúc. Nó cũng là nguyên cớ để trong những năm qua, cái tên Trương Minh Hiếu trở nên thân quen gần gũi, tới mức không thể thiếu vắng, của công chúng bạn đọc gần xa, của trang mạng văn chương Nhà Búp (nhabup.vn), của các báo, đài, tạp chí trung ương và địa phương….
Nếu nói “Cội” và “Đi qua mỗi ngày tôi” của Trương Minh Hiếu là quả bói chín ngọt thơm của “mối duyên lành” đã dẫn anh - một giám đốc doanh nghiệp tài giỏi của miền đất Cảng - đến với, hay nói chính xác hơn là quay trở lại với “ngôi đền thiêng” văn học nghệ thuật Thái Bình, với cánh đồng văn chương đương đại Việt Nam, thì tập thơ thứ 3 “Ru mình” của anh thực sự là một dấu son trong cuốn nhật ký tâm hồn, ghi lại xúc cảm dạt dào của thi sĩ khi lần tay chạm đất, tìm về những gì sâu nhất của ký ức và gốc nguồn. Bởi, “Ru mình”, đúng với tên tác phẩm, là một tập thơ hay, là chắt lọc tinh hoa từ những cú va đập của cuộc sống thường nhật, là nét sáng trong đậm đầy ân nghĩa của một tâm hồn thơ giàu xúc cảm có cái nhìn lý trí, thanh tỉnh, điềm tĩnh đối với con người, trời, đất. Bởi, 68 bài thơ lục bát của Trương Minh Hiếu như những mảnh ghép kỳ diệu của bức tranh hiện thực cuộc sống, là những dải lụa mềm nối đất và trời, nối ký ức và hiện tại. 68 bài thơ, là biết bao lần thi nhân chân thành cúi xuống, soi mình, soi đời, để mộc mạc và chân thành cảm nhận, để tinh tế và trải nghiệm lắng nghe hơi thở của đất trời, của phận người, của những đứt gãy và hàn gắn, của chia xa và sum vầy…
Vẫn là những hiện thực cuộc sống, vẫn là hình ảnh nón mê, mái tóc bạc của mẹ, vai áo sờn của cha, sự mẫn tiệp vun đắp yêu thương hạnh phúc của vợ con. Vẫn là mái tóc thơm hương bồ kết, là mưa quê nhà, là con sông, bờ đê, đồng lúa, vườn rau, đám lục bình… Là tất cả những thân thương, hiền dịu và ấm áp đã có ở “Cội”, ở “Đi qua mỗi ngày tôi”. Nhưng ở “Ru mình”, qua thể thơ truyền thống lục bát này, nó lại được Trương Minh Hiếu nâng lên thêm một tầng cao mới trong cảnh giới tinh thần. Nó làm cho tâm hồn người đọc trở nên thanh tịnh, thiện lành, bao dung và lắng đọng hơn. Nó thực sự là “những sợi tơ rút ra từ cuộc sống và quay trở lại điểm trang cho cuộc sống bằng vẻ đẹp muôn màu của nó”. Là hành trình Hiếu trở về với chính mình. Là bản trường ca được hát lên bằng cả một miền ký ức nơi anh đã sinh ra và lớn lên, nơi anh đã đi qua và tụ lại - những điều tưởng nhỏ bé, đơn giản mà lại neo giữ cả vía hồn quê hương với sự cảm ngộ sâu sắc về vòng đời nhân sinh của người viết.
Đọc thơ Hiếu, dễ thấy một mạch cảm xúc xuyên suốt cả tập thơ: yêu thương, biết ơn, trân quý, có chút tiếc nuối nhưng không bi lụy, chát chua, gằn hắt. Và cũng giống như ở “Cội” và “Đi qua mỗi ngày tôi”, những bài hay nhất của tập thơ Ru mình vẫn là những bài thơ anh viết về quê hương bản quán, về cha mẹ, người thân, về 7 loại tình cảm mà nhân thế đang đắm đuối bấu víu, nương nhờ. Với chất trữ tình tự nhiên, giọng điệu dịu dàng, chất thơ mộc mạc, ngôn ngữ dễ cảm, hình ảnh dễ gợi, “Ru mình” giống như lời tự nhủ, thủ thỉ, tâm tình với chính mình. Sự mộc mạc chân thành dịu nhẹ ấy tạo cảm giác đồng cảm cho người đọc — không ồn ào mà lan tỏa chậm và sâu, như một khúc ru, đúng như tên gọi. Rất dễ thấy, rằng chỉ có người thương đất, thương người, thương mẹ cha, thương gió mưa, thương mình… mới viết ra được những câu thơ ngỡ nhẹ tênh mà nặng lòng đến thế.
Ví như ở bài “Hương bồ kết”, ta như thấy cả hồn vía quê nhà đang được anh gói lại trong hình tượng người mẹ của mình, một nồi nước bồ kết thơm cho chính tay mẹ nấu, mái tóc mẹ bạc dần theo năm tháng và những nếp quen cũ cứ neo níu lòng người.
Hương thơm quanh chỗ mẹ ngồi
Tóc khô, gió thổi lên trời bay bay
Gội đầu, nấu nước tự tay
Nếp quen mẹ giữ từ ngày xa xưa…
Những câu thơ không cầu kỳ về thi liệu. Những câu hỏi mang tính tự vấn, nhẹ nhàng nhưng nhân văn sâu sắc. “Hương bồ kết” mẹ gội trôi bụi bặm, gội cho nhẹ điều đa mang. Mẹ đã già, con cũng ở xa, hương bồ kết còn đâu nữa? Đọc lên, có lẽ bất cứ người con nào khi xa quê, xa mẹ cũng thấy nghèn nghẹn trong lòng:
Bây giờ mẹ đã già nua
Theo năm tháng, tóc ngẩn ngơ mái đầu
Hương bồ kết có còn đâu
Xa quê phảng phất nhớ màu nắng trưa
Tôi đã dừng lại rất lâu ở các bài thơ “Lời ru ban trưa”, “Đọc thơ tặng mẹ”, “Viếng mộ cha”, “Gió đồng xa”, “Ngọn gió vườn nhà” bởi cảm nhận được những tình cảm hiếu nghĩa, ấm nóng và day dứt của anh. Mắt tôi nhòa ướt, bởi tất cả những kỷ niệm về ba mẹ tôi lại hiện lên rõ mồn một trong những câu lục bát mềm như nước mà anh viết:
Con như quả thắm, cành non
Mẹ nuôi dòng nhựa cạn trong thân gầy
Nghe thơ, mẹ nói thơ hay
Tiếng con nấc nghẹn, mắt cay cay nhòe
(Đọc thơ tặng mẹ)
Và:
Con đi từ buổi trưa này
Mẹ trông từng bước giấc đầy giấc vơi
Tàn canh thức với đất trời
Nếp nhăn hằn tiếng ru hời cạn đêm
(Lời ru ban trưa)
Hay như:
Ta ngồi vào chỗ cha ngồi
Bàn chân hằn vết mồ hôi đẫm mùi
…
Góc vườn dáng nón hình như vẫn còn
Là của mẹ những hao mòn
Quạt cho gió ngủ say tròn giấc mơ
(Ngọn gió vườn nhà)
Và những câu thơ cháy bỏng nỗi ước mong rằng mẹ mãi được vui khỏe hạnh phúc bên con cháu trong nhiều năm nữa:
Tuổi gần trăm, đã bao nhiêu
Ước mong Mẹ vẫn còn nhiều tháng năm
Tròn trăng đâu phải là rằm
Lở bồi sông vẫn lặng thầm đầy vơi
(Ngày của Mẹ)
Một thứ ngôn từ không màu mè mà lắng đọng, như tiếng ru, như lời tâm sự của đứa con đã lớn, đã xa, nay chợt quay đầu ngơ ngẩn trước mùi hương của rơm đồng, bậc thềm, góc sân, bến sông, con đò:
Chợt thơm hương của rơm đồng
Ổ nằm mẹ ủ ấm nồng áo khăn
Thiếu thừa chiếu cuộn làm chăn
Cha chong chong giấc. Rét đằm đêm xưa
(Nhớ rét)
Rồi:
Vơi đầy theo tiếng sóng reo
Bữa trưa vội bát cơm nghèo bến sông
Khách vui quang gánh chất chồng
Buồn người lỡ chuyến, đò không cũng chèo
(Cha tôi lái đò)
Những hình ảnh giàu sức gợi cảm như áo bạc, nón mê, lưng còng của mẹ hiện lên như nhắc nhớ về cái ngày xưa ấy:
Trăng vàng gửi lại triền đê
Mỏng manh áo bạc, nón mê, lưng còng
Mạ xanh phơ phất giữa đồng
Gió ngày xưa ấy vẫn nồng nàn bay
(Gió đồng xa)
Bài thơ “Viếng mộ cha” đẹp như nén nhang thơm gửi đến người cha kính yêu của Hiếu. Nó cũng là lời nhắn nhủ cho những ai còn cha, còn mẹ, “biết đường mà đi, biết lối mà về”:
Đò đời con vững tay chèo
Chiều nay viếng mộ cha theo bóng về
Mạch thơ của Hiếu thấm đẫm một tình yêu quê, yêu biển, yêu sông, yêu cả những cánh đồng, lối mòn, bờ đê, bãi cỏ, lối cũ… Một không gian vừa cụ thể vừa mơ hồ, vừa như là nơi ta đang đứng, vừa như đã nằm yên trong ký ức từ thuở nào. Tất cả là những lát cắt dung dị mà ở đó, thiên nhiên được gài vào thơ như một nhân vật có linh hồn, như tri âm tri kỷ, cho ta một cảm giác bình yên.
Nửa đời có được bao nhiêu
Giàu sang vẫn thiếu một chiều sông quê
(Tìm về ngày không)
Và đây nữa, là cái nhìn đầy thương cảm của thi nhân đối với những kiếp phận nhỏ nhoi nổi trôi trong cõi Ta Bà: những hạt cát, viên đá, cái lá, mảng lục bình trôi, cây bần…. Nỗi niềm cảm thương bao dung chứ không hề bi lụy, nặng nề, giáo điều:
Tay cầm cát trắng trong tay
Càng siết chặt, cát càng dày hạt rơi
Nên thôi, cứ mặc lẽ đời
Trách chi là cát tại trời sinh ta
(Gọi cát trắng)
Và:
Cũng sinh ở cõi đất trời
Dầm trong xót mặn một đời vẫn hoa
Cũng mang trái chín thật thà
Mà sao chua chát, mà là nổi trôi
(Bần ơi)
Rồi:
Bồng bềnh từ thuở một hai
Nổi chìm xuôi ngược dằng dai miền nào
Bao nhiêu thân phận má đào
Rủi may đâu có dạt vào duyên ta
(Lênh đênh Lục bình)
Giữa nhiều bài thơ đẫm màu hoài niệm, bài “Chạm vào chiếc lá” lại như một triết lý nhân sinh nhẹ nhàng mà sâu lắng:
Này, chạm vào lá đi em…
…Chạm là gieo hạt vấn vương
… Kiệt cùng màu mỡ đất vì lá thôi
Ở đây, chiếc lá không chỉ là lá. Nó là dấu mốc của cảm xúc: chạm vào lá nghĩa là chạm vào sự sống, vòng quay luân hồi, chạm vào chính mình:
Chạm vào chiếc lá em ơi
Nghĩa là tôi chạm vào tôi phút này
Thơ Hiếu là vậy. Không đơn thuần chỉ là phút ‘tức cảnh sinh tình” được thi nhân gửi gắm trải bày trong những câu chữ có vần có điệu. Thơ anh chính là được viết ra từ một tâm hồn đẹp lấp lánh thiện lương. Thơ của một người có tâm hồn hướng nội, đầy ắp những cảm xúc và chiêm nghiệm thực tế, đầy ắp sự thấu hiểu và cảm thông, trước quá khứ và hiện tại, trước sóng xô biển lặng, trước quên nhớ, lở bồi:
Cuộc người được mấy thong dong
Sóng xô tĩnh lặng để dòng sông yên
Vui thì nhớ, phiền thì quên
Lở bồi lắng lại tuổi tên cho mình
(Nhắn người trong gương)
Những câu thơ rất tình nhưng không sướt mướt bi lụy. Bởi cái tình trong thơ anh, dù là tình cảm với cha mẹ, với con cái, với vợ, tình đồng nghiệp, tình bạn… thì cũng đều được anh nâng niu gây dựng, trân trọng đắp bồi với những rung cảm yêu thương, nỗi niềm cảm mến, bao dung chân tình:
Sân si chi những giận hờn
Bỏ buông ham hố thiệt hơn nhẹ lòng.
Người thơ hiểu, tình yêu lớn nhất ở cõi đời này vẫn là tình cảm yêu thương từ bi giữa con người với con người, là biết thương mình, thương người nên đã có cái nhìn thanh tỉnh mà vị tha khi tự “ru mình” bằng hoài niệm về những tháng năm xưa cũ:
Ngờ đâu mưa thoáng tại trời
Người thì ướt một, tôi mười lần hơn
Chắp tay vái lạy đường trơn
Cho ta theo với thoáng cơn mưa người
(Chỉ là một thoáng mưa bay)
Với cái nhìn lạc quan, người thơ còn gom chọn những gì tinh túy nhất của 4 mùa xuân hạ thu đông về đồng hành cùng với cỏ, để đường thơ kim cổ thường hằng miên man lời cỏ xanh mềm:
Ngát xanh trên nẻo thu về
Nắng thao thiết gọi, gió mê miết lời
Đông mang cái rét đến rồi
Tay xinh lại ủ ấm chồi lưa thưa
(Những mùa cỏ xanh)
Cũng có khi là câu hỏi và câu trả lời cho người có duyên mà không có phận chung đường:
Sao không chung một con đường
Cho đau khỏi lạc, cho thương khỏi chờ
Khôn ngoan nào của bây giờ
Chẳng bằng một chút dại khờ ngày xưa
(Cà phê một mình)
Cái tình lặn vào thơ anh, vào hồn vía của một thi nhân đích thực, tạo nên những nền móng vững chắc để chiêm nghiệm, để trải lòng. Đọc thơ, thấy lòng mình thêm nhẹ bởi ngôn thi của Hiếu như đang an ủi, bù đắp, chữa lành cho những thiếu, khuyết của đời người:
Thôi đành cho hạ đèo bòng
Cho cơn nắng mới phải lòng sớm mai
Tủi người đương thắm vội phai
Nước đầu chát bỏ, nước hai ngọt trà*
(Trách gì xuân phải qua mau)
Và:
Kiếp nay còn mấy cuộc chờ
Gieo vần níu lại giấc mơ chưa tàn
Ta còn ở với trần gian
Là còn lục bát lang thang đi tìm
(Đi tìm lục bát)
Và đây nữa
Ngày dài chẳng kể thiệt hơn
Đêm dài chẳng kịp mấy cơn trở mùa
Níu xin Giêng chút dư thừa
Đắp đầy cho đủ lúc vừa sang Hai
(Sang hai)
Bài nào trong “Ru mình” cũng đều cho ta cảm giác như đang được dẫn dắt về một khoảng lặng trong tâm hồn, nơi mỗi câu thơ là một lời thủ thỉ tâm tình, tự vỗ về mà cũng là để thức tỉnh chính mình giữa dòng đời đầy bất trắc.
Đắn đo trước chuyến đò đầy
Dòng sông bỏ lại sóng lay lắt buồn
Mùa về nắng đổ mưa tuôn
Người như mỏng mảnh cánh chuồn bay đi
(Mùa cũ)
Người thơ như tự nhủ với mình, với bạn đọc: ta đi qua bao vết xước thời gian, chỉ mong lòng được phẳng lặng, nhẹ nhàng hơn.
Gần thêm cho lạ thành quen
Vỗ về để sóng trào lên trắng bờ
Khơi xa đừng có hững hờ
Ngàn xưa sóng vẫn tìm bờ khát khao
(Lại gần ta để có nhau)
Thấy rõ là Hiếu không triết lý dạy đời, không lên gân, không gồng mình “làm mới” thơ, không dùng các thủ pháp đặc biệt gì. Anh chỉ bình thản nhìn, ngắm, rồi để cho cảm xúc tự hát lên, như tự sự với chính mình: có duyên rồi sẽ đắc; nỗi buồn sẽ hóa nụ cười; điều vui cũng lắm khi khởi đầu bằng tiếng khóc… Cái triết lý “tàn đêm là sẽ sang ngày nắng lên” gói trọn một niềm tin hiền hậu:
Vững tin rồi sẽ đến mà
Trắng trong qua đục vẫn là trắng trong
Mới hay nhân quả thong dong
Hoàng hôn nói được cõi lòng ban mai
(Nhân quả thong dong)
Những câu chữ mộc mạc giản đơn, những hình ảnh thân quen mà giàu sức gợi được anh gửi gắm vào lục bát - thể thơ tưởng chừng cũ nhưng không cũ. Bởi nó là chiếc áo vừa vặn nhất để chở những rung cảm bình thường mà thẳm sâu trong cuộc đời anh. Bởi, anh đã hiểu rằng: Hạnh phúc là quả của nhân duyên. Đại đạo là chí giản chí dị. Nên ngôn từ trong thơ lục bát của anh tưởng đơn giản nhưng thực ra là được chọn lọc một cách tinh tế. Giai điệu thơ cũng chậm, tĩnh và khiêm nhường. Chính những chất liệu mộc mạc đời thường ấy đã mở ra một tầng ý nghĩa rộng của lối sống chậm:
Gió không mang đến từ xa
Làm sao có bóng la đà với cây
Cánh diều lên chín tầng mây
Chiều cao ở sức vóc dây mang về …
(Tự ngẫm)
Những câu thơ tưởng giản đơn mà có tính triết lý nhân sinh sâu sắc:
Mải mê đãi cát tìm vàng
Nhọc nhằn đổi lại ngỡ ngàng đồng thau!
(Tìm lại lời yêu)
Và:
Đồng tiền mua được tiếng cười
Thì ta đã mất cả mười thế gian
Ta không châu báu bạc vàng
Vẫn mơ ngày có vạn ngàn chưa qua
(Nhân quả thong dong)
Một điểm chạm đáng nói nữa của tập thơ là những bài anh viết ở xứ người (Sông lạnh, Làng cổ, Viếng mộ Hàn Mặc Tử…). Chân đi xa, mà lòng anh vẫn neo lại nơi những câu lục bát ngọt mát quê nhà. Chính sự hòa quyện ấy làm cho thơ Hiếu không bó hẹp trong không gian làng quê cũ, mà còn mở ra miền nhân thế rộng lớn — nơi người lữ khách bươn bả tìm kiếm một chốn quay về cho tâm hồn. Chỉ là tiếng tàu đêm nơi ga King’s Cross, một chút gió lạnh Nikko, một Amsterdam mùa hoa chớm mai, tiếng sóng Nha Trang, một câu hò ở An Giang… Ở nơi đất khách quê người, anh vẫn nghe ra, vẫn nhớ về tiếng gà chiều đông, tiếng ru mẹ, tiếng con cá rô lội ngược đồng xưa.
Nắng nghiêng tràn nửa bãi ngoài
Mây đen đổ bóng xõng xoài đồng trong
Bất ngờ trời nổi cơn dông
Lối lơ ngơ lối, chiều chông chênh chiều
(Bất chợt chiều mưa)
Giữa vô vàn những nhịp thơ hiện đại gấp gáp, tân kỳ, “Ru mình” của Trương Minh Hiếu lặng lẽ trôi vào lòng người đọc như một làn gió chậm, êm, nhưng đủ để ta gói lại những lo toan bộn bề của cuộc sống để trở về, về với chính mình, về với nơi ta đã đi qua trong suốt dặm dài năm tháng mà chưa kịp dừng lại đủ lâu để hiểu, để thương. Bởi người thơ này đã chọn neo hồn mình về phía chân thành, thật lòng, truyền thống, đủ gần gụi để người đọc thấy có mình trong đó.
Là ta, ta tự yêu rồi
Với quê da diết, với người chơi vơi
Làm sông hát đến cạn lời
Làm đôi bờ chảy lở bồi với mưa
(Thơ tình ta viết)
Và:
Buồn nào rồi cũng sẽ qua
Tiếc cũng muối mặn tan ra biển đầy
Phù du như lá trên cây
Vừa lộc biếc đã vội thay úa vàng
(Hát cho mình)
Bài cuối cùng, đồng thời cũng là tên tập - Ru mình - như dấu lặng sau cả hành trình dài. Bóng người, bóng mình, bóng đất trời, quyện vào nhau, nhẹ như câu hát à ơi cuối cùng:
À ơi…! Nào ngủ đi thôi
Năm canh sắp cạn, vành nôi sắp đầy
…
Ơi à…! Có ngủ được đâu
Trăng tàn thổn thức mãi câu ru mình
Đây là bài thơ tiễn ta ra khỏi bộn bề lo toan của cuộc sống. Lời thơ nghe như bâng quơ. Người thơ chẳng ru ai, chỉ tự ru mình. Ru để thấy đời người ngắn lắm, chỉ như giấc mộng kê vàng trong cánh bướm Trang Chu. Ru để thức tỉnh. Để mình trở về với mình. Để sáng mai thức dậy, vẫn được cảm ơn đời đã cho ta có thêm một ngày mới để yêu thương, sẻ chia, để tiếp tục sống, hiện thực hóa những giấc mơ còn đang dang dở. Bởi ai cũng có những đêm “mưa tan, nắng nhạt, gối chồn, chân đau”, với những lo âu thường nhật mà mình chưa buông nổi.
Khép sách, mà lòng vẫn nghe thấy tiếng thơ ru…
Khép sách, mà tâm mình xênh xang rộng mở.
Khép sách, thấy đất trời an hòa, sáng trong. Những lốc tố trước còn quậy phá ngoài kia giờ đã trốn chui đi đâu hết cả. Chỉ còn lại khung trời xanh bao la lửng trôi những chùm hoa mây trắng. Nắng bừng lên bên ô cửa sổ. Và những bông hoa giấy ngoài ban công kiêu hãnh vươn lên, thắm sắc cùng với những chiếc lá non tươi lấp loáng nắng.
Khép sách, chợt hiểu sâu hơn những lời mà nhà thơ Kim Chuông - một người thầy của Nhóm Búp trên cành - đã yêu thương dành cho Hiếu trong lời tựa của tập thơ “Đi qua mỗi ngày tôi”: “Trương Minh Hiếu và Thơ” là nguồn chảy mát lành, da diết. “Thơ của con tim Thi sĩ.” Thơ luôn bám chặt tầng không gian vũ trụ. Thơ luôn lấy khả năng ôm trùm ba cõi: “Thiên - Địa - Nhân” làm sức cứu cánh. Lấy “Hiện thực” của “đại giác” làm “thế giới nội tâm”. Lấy lợi thế của người có dịp bôn ba trên nhiều xứ sở, châu lục. Người lãnh đạo một công ty với nhiều va đập, trải nghiệm từ thực tại của đời sống thường nhật. Vị thế ấy, tâm thế ấy, đã đem lại cho Trương Minh Hiếu “cái Nhìn, cái Cảm”. Từ những gì là hướng ngoại… Để rồi, Nhà thơ đã nhờ vào “cái có được ở sức rung của tâm hồn, của ngôn ngữ, ảnh hình, mà tìm được “cái Động”. Tìm được vệt loang, với “cái Ảo”, “cái Biến hóa” mang nguồn chảy với sức mở nào đó”.
Khép sách, lại mong sớm được đọc tiếng lòng của người thơ này ở tập thơ tiếp theo, nghe nói sẽ xuất bản vào cuối năm nay.
Khép sách, cảm được cái nhuyễn, cái hay, cái biến hóa, sáng tạo trong cách sử dụng thi liệu của “Ru mình”, càng thêm trân quý những dòng lục bát của Hiếu. Tôi như gặp lại hồn vía đắm say tới mê hoặc của lục bát Kim Chuông, âm hưởng dịu lành trong mát tâm can của lục bát Nguyễn Ánh Tuyết, hơi thở triết lý sâu xa tới thanh tỉnh của lục bát Nguyễn Quốc Văn… Tôi hiểu rằng, để viết nên những câu lục bát hay, đi vào lòng người, như Kim Chuông, Ánh Tuyết, Nguyễn Quốc Văn, Trương Minh Hiếu… quả thật không dễ. Bởi, mỗi lần nhắc đến thể thơ lục bát là tôi lại nhớ đến một tuyên ngôn bất hủ của Nhà thơ Anh Vũ: “Muốn biết một bát phở có ngon hay không thì phải xem cách thái miếng thịt bò. Muốn biết một nhà thơ có phải thứ thiệt hay không thì phải nếm mùi Lục Bát.. Thể loại này mấy trẻ chăn trâu chửi nhau cũng có thể làm được. Nhưng để đạt cái chất lượng như cụ Nguyễn Du thì phải là nhà thơ thứ thiệt. Tôi nghĩ trước lúc có “Lục bát” cho đời thì phải thành công ở rất nhiều các thể loại khác. Kể cả văn xuôi, kể cả vốn sống đã trải nghiệm trong đời”. Hiếu đã có những trải nghiệm đột phá, những cung bậc cảm xúc thăng hoa ở các thể loại thơ khác trong “Cội” và “Đi qua mỗi ngày tôi” nên thành công của “Ru mình” chỉ là thêm một khẳng định cho quá trình miệt mài sáng tạo và thăng hoa của nhà thơ trên con đường trở lại với thơ ca, trở lại với chính mình.
Xin cảm ơn Trương Minh Hiếu vì đã chắt chiu những câu lục bát này, những câu thơ hay, nhuyễn và cảm. Những câu thơ tưởng mỏng manh nhưng cất giữ cả một miền thương yêu và khát vọng bình yên.
Xin chúc mừng Trương Minh Hiếu, một thi nhân được đào tạo “bài bản” từ thuở nhỏ trong “lò luyện văn chương” của Hội Văn học Nghệ thuật quê lúa Thái Bình nay đã thành danh trên đất cảng, một giám đốc doanh nghiệp luôn bận mải với công việc mà vẫn dành cho thi ca một khoảng thời - không riêng với những cảm xúc chia sẻ lắng đọng, thật lòng. Chúc Hiếu bay cao, bay xa hơn nữa trên con đường trở lại với chính mình để thực hiện “giấc mơ Búp” năm xưa. Hiếu thật xứng đáng với niềm tin yêu hy vọng của những người thầy một thời của “Lớp Búp trên cành Thái Bình”, của các tác giả và độc giả Nhà Búp, xứng đáng là một “truyền nhân” đích thực của thầy Kim Chuông trên đất cảng Hải Phòng.
Hà Nội, tháng 7 năm 2025
Trần Huyền Tâm