- Lý luận - Phê bình
Quá khứ không ngủ yên
Thứ bảy - 04/01/2020 22:16
Có những câu thơ đi suốt cả một đời người. Nó như một thứ gen (gene) văn chương, gen tư tưởng đồng hành với chúng ta. Nó như nhắc lại những kỉ niệm bắt cá giữa đường khi con sông quê đục ngầu nước lũ tràn qua mảnh ruộng, ao làng. Nó như một gương mặt bè bạn bất chợt gợi ta nhớ thuở bắt cào cào châu chấu, đào dế ven đê...
Bài thơ tôi nhớ đến, thường nhẩm đọc trong những đêm mất ngủ đất phương Nam vọng về đất Bắc khi vừa nghe tin Ngoại ra đi… Bao nhiêu năm sau, tiễn Mẹ về với ông bà, có lúc tôi thẫn thờ bạc phơ con mắt, thức giữa đêm muốn thố lộ cùng trang giấy. Kỳ lạ chưa, ngày mai đọc lại vẫn là bài thơ Đăng U Châu Đài ca của Trần Tử Ngang.
Chợt nhớ một ngày Đông mang mang trong quá khứ, chui trong lòng mẹ ngủ vùi. Nửa đêm chợt giấc nhìn mẹ còng queo ngủ mệt nhọc và ...chợt khóc. Mẹ dậy dỗ dành, đứa bé là tôi lúc ấy không thôi mếu máo: "Mẹ ơi! Mẹ sống mãi nha Mẹ"... Bài thơ này hôm nay lại làm mắt tôi tuôn lệ. Mẹ đã ra đi. Và rồi tôi hôm nay? Bao giờ có cuộc viễn du trong thân phận kiếp người?
Thời sinh viên, vừa chớm yêu thương, anh bạn tôi tâm sự đã có bao nhiêu giấc mơ về đứa con ngày sau của mình. Hiển nhiên, ai mà tưởng tượng được đứa trẻ còn chưa đẻ ấy sau này sẽ chơi games đì đùng, nói chẳng nghe lời, làm cho giấc mơ ngày xưa nhàu nát. Con đường đi của đứa trẻ trong trí người cha đã chệch hẳn ước mơ xưa. ..
Bài thơ của họ Trần lại hiện lên nối thời gian dằng dặc bao nhiêu thế hệ. Cái hiện tại có ông bà cha mẹ ngày xưa giờ đã là quá khứ. Cái thế giới thiêng liêng ấy vốn Có, vốn hiện hữu, giờ trống không. Nhưng hoài niệm không cho quá khứ ngủ yên. Chúng vẫn hiện hữu cho bước chân chập chững tuổi thơ đi tìm thời gian đã mất.
Cái hôm nay, cụ thể là lớp trẻ hôm nay, trong đó có con tôi vốn là ảnh hình của ước mơ, của cái Không thì giờ đây hiện hữu bằng xương thịt... Nó làm tôi cứ như người lửng lơ với 2 cõi đi về. Cái hiện tại càng thô ráp, rỉ máu bao nhiêu thì cái quá khứ ngày xưa vốn bình thường bỗng sáng lòa những thiên đường tôi những muốn tìm lại…
Lạ thật, cứ mỗi lúc buồn không thể nói được dù là trang nhật ký, dù là một bài thơ lục bát lan man, hồn vía của Trần Tử Ngang lại tái hiện bốn câu thơ có sức sống hơn ngàn năm. Vâng, đã 13 thế kỷ trôi qua rồi, Đăng U Châu Đài ca đã trường tồn cùng năm tháng như thế đấy...
Nguyên tác tiếng Hán:
登幽州臺歌
(陳子昂 )
前不見古人,
後不見來者;
念天地之悠悠,
獨愴然而涕下。
Một số bản dịch Việt ngữ "Bài ca lên đài U Châu"
*Người trước chẳng thấy ai
Người sau thì chưa thấy
Gẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy.
(Tương Như dịch)
*Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
Trông về sau, quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.
(Trần Trọng San dịch)
*Trước chẳng thấy người xưa,
Sau chẳng thấy ai cả.
Ngẫm trời đất thăm thẳm sao!
Riêng xót xa lệ lã chã.
(Trần Trọng Kim dịch)
*Ai người trước đã qua,
Ai người sau chưa đẻ?
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn dòng lệ..
( Hoài Thanh dịch)
*Trước không gặp được người xưa
Sau không gặp được kẻ chưa ra đời
Mênh mang ngẫm lẽ đất trời
Một mình để giọt lệ rơi bùi ngùi
(Cao Nguyên dịch)
Người xưa đâu chẳng thấy!
Kẻ tới sau chẳng hay!
Dài dặc kia trời đất,
Rưng rưng lệ rỏ đầy.
(Bản dịch của Thái Quang Vinh)
Họ Trần làm thơ và để dấu ấn thiên tài của ông từ rất sớm. Đọc thơ ông, bài nào cũng muốn dừng lại để thưởng thức những ý vị đặc biệt. Có giai thoại rằng:
Lần đầu, vừa đến Trường An, thấy có kẻ bán một cây đàn nước Hồ (Hồ cầm), họ Trần bèn hỏi giá. Người bán đàn đòi một vạn quan tiền. Cả chợ không ai dám mua. Trần bỏ ngay một vạn quan ra mua cây đàn. Mọi người kinh dị hỏi thì Trần bảo: "Đàn này là vật trân bảo nhất đời, tiếc rằng giờ tôi bận việc, chưa giải thích được. Mời mọi người sớm mai đến xóm Tuyên Dương, tôi xin nói rõ". Sáng hôm sau, rất nhiều người tụ tập ở xóm Tuyên Dương để nghe Trần giải đáp thắc mắc. Trần sai người nhà bày rượu thịt mời tất cả. Cạn chén, Trần giơ cao cái đàn nói: “Tôi là Trần Tử Ngang, người đất Thục, có trăm quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không ai biết đến, chẳng ai biết cho, còn cái Hồ cầm là vật nhỏ mọn thì lại xúm nhau vào xem. Than ôi! Chốn văn vật này ngờ đâu không có ai biết người biết của!”. Nói xong, hầm hầm tức giận, đập tan cây đàn ra rồi phân phát thơ mình cho mọi người. Chỉ một ngày, thơ Trần được truyền tụng khắp kinh thành. Quan Tư không Vương Thích xem được, nức nở khen rằng, thơ Trần đáng đứng đầu thiên hạ (sưu tầm).
Ông vốn là con một gia đình giàu có. Ông đã từng sa vào con đường ăn chơi cờ bạc "Trăm nghìn đổ một trận cười như không". Thật bất ngờ, chàng trai này quay ngoắt 180 độ, dùi mài kinh sách và tự thấy mình sừng sững như một đài cao giữa những danh sĩ đương thời. Ông coi việc lập Danh, lập Chí và đặc biệt việc lập Ngôn là lý tưởng của mình. Tiền của không có ý nghĩa gì so với giá trị văn chương, giá trị tinh thần. Để lại điều ấy khiến ông luôn niệm suy về vũ trụ, muốn bất tử cùng "thiên địa du du".
Sực nhớ, Đặng Dung là vị tướng thất thế thời hậu Trần. Người đời ít biết những chiến công và cái kết bi phẫn của cha con ông. Riêng câu “Gươm mài bóng nguyệt” là bất tử với văn chương Việt. Đừng quên rằng, vị tướng bạc đầu mong báo thù cho nước, phò giá cho vua ấy mở đầu bài "Cảm hoài" cũng "vô cùng thiên địa du du" bằng âm hưởng của Trần Tử Ngang:
"Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca".
["Việc đời dặc dặc tuổi già đây
Trời đất miên man nhịp hát này" ]
(Bản dịch của Nguyễn Văn Trình)
Trước nữa, Thôi Hiệu đã từng "Bạch vân thiên tải không du du.. "
Với văn tài xuất chúng đó, năm 24 tuổi, Trần Tử Ngang đã thi đậu tiến sĩ và được Võ Hậu nể phục tài năng. Người xưa nói chung và họ Trần nói riêng luôn muốn trường tồn cùng hậu thế sự nghiệp văn chương. Hãy nghe ông nói: "Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ đâu phải để lưu danh nhất thời".
Đi theo khoa học phương Tây dùng khoa học thực chứng để giải phẫu văn hóa tâm linh phương Đông, không phải bây giờ mà từ thời Hoài Thanh viết "Thi nhân Việt Nam" mọi người đều đồng thanh một công thức: thơ xưa là của chữ "Ta ". Nó đối lập với chữ "Tôi" nên nó mô phỏng, công thức, thiếu sáng tạo....
Hãy tìm hiểu Trần Tử Ngang để thấy rằng các nhà khoa học đang tự giam mình trong cái lồng chật hẹp đó. Rõ ràng, họ Trần đã có quan niệm rất riêng, thơ ông có tiếng nói hào sảng, bi tráng rất riêng. Ông lựa chọn cái hay để phát huy và phủ định những dòng văn chương lòe loẹt phù phiếm.
Ông là nhà cách tân, là người tiên phong trong việc yêu cầu sáng tác phải có “ký thác”, tức nói lên suy ngẫm của mình trước hiện thực đời sống, lìa bỏ hẳn thơ sắc tình và ca công tụng đức. Nói rõ hơn, Trần tiên sinh đòi hỏi thi ca phải có lý tưởng cao cả, phải gắn với hiện thực cuộc sống.
Ông cực lực bài xích thơ Tề Lương và đề xướng học tập phong cốt Hán, Ngụy, đặc biệt là phong cách thơ Kiến An (Niên hiệu Hán Hiến Đế 196 - 220). Văn trào này có lãnh tụ là ba cha con Tào Tháo, dưới nữa có "Kiến An thất tử".
Nhà thơ thời Sơ Đường này cùng với lối thơ "ký thác" đã thực sự mở đường, ảnh hưởng tới sáng tác của các thi gia hàng đầu như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị sau này.
Cũng cần nói thêm về cái tên mà cha mẹ đặt cho ông. Chữ NGANG trong tiếng Việt thường có nghĩa xấu nhưng trong chữ xưa lại nói về người quân tử trượng phu khí phách. Nguyễn Du có hiệu là Thanh Hiên. Nếu dùng chữ ráp lại, ta có thể thấy phẩm chất mà hai thi sỹ đeo đuổi văn chương này là gì? Là Hiên Ngang, là khí phách, không luồn cúi, sống chết cùng chân, thiện; cùng nguyên lý của trời đất...
Hơn mười năm tham chính, họ Trần bất đắc chí và nhân cớ cha già, xin lui về ở ẩn. Trớ trêu thay, ông bị tên huyện lệnh hãm hại chết trong ngục ở tuổi bốn hai. Tác phẩm còn lại là 120 bài thơ.
Nhưng, nhắc tới tên ông, như một liên tưởng tự nhiên, người ta nhớ ngay tới "Đăng U Châu đài ca". Có người ngâm ngợi 4 câu thơ trác tuyệt ấy như thơ của chính mình mà không cần biết tác giả và tên tác phẩm.
Trong hàng vạn bài thơ Đường, hàng ngàn nhà thơ Đường thì Trần Tử Ngang và bài thơ của ông rất dễ liên tưởng tới "nhà thơ của một bài" là Thôi Hiệu với "Hoàng Hạc Lâu".
Có thể nói không ngoa rằng, Trần Tử Ngang đã khởi đầu cho một loạt các bài thơ nổi tiếng với đề tài "Đăng Cao" sau này trong thơ.
Nó như một cái "mã nghệ thuật" nói về tư thế ngang tầm, hòa cùng vũ trụ của nhân vật trữ tình. Dường như đứng ở trên cao người ta có thể nhìn xuống mà thấy mình có tầm vóc hơn, suy nghĩ hướng thượng hơn, cảm nhận nhân cách trí huệ của mình ở một tầng cao hơn so với thường nhân chen chúc lè tè tranh đấu ngược xuôi trong thất tình lục dục.
Ta đã gặp Lý Bạch đăng cao khi "Tọa Kính Đình Sơn"; gặp Vương Chi Hoán với “Đăng Quán Tước lâu "; gặp Thôi Hiệu đến Lầu Hoàng Hạc… Thậm chí khi "Đăng Cao" ngồi rót chén rượu đục trên đài, nhà thơ hiện thực với thân trăm bệnh Đỗ Phủ cũng nhìn cảnh vật với đôi mắt khác thường:
"Gió gấp trời cao vượn nỉ non,
Bến trong cát trắng, lượn chim cồn.
Rào rào lá trút rừng cây thẳm,
Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn. "
(Nam Trân dịch)
Thơ ca Việt Nam cũng không hiếm bài như vậy. Mặc dù còn tranh luận thơ ai nhưng tôi rất thích bài "Cảm hoài " được cho là của Không Lộ Thiền Sư:
Tỏ lòng (Bản dịch của Phan Võ)
"Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê nào chán suốt ngày vui
Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời."
Không có tham vọng hiểu bài thơ một cách thấu đáo, hy vọng đây chỉ là những phác thảo của những mảnh rời mà tôi đã cảm nhận tác phẩm này qua năm tháng. Từ thời đứa trẻ dưới 10 tuổi nghe ông ngoại ngâm vịnh dạy từng con chữ dưới hầm Triều Tiên tránh bom, cho đến lúc tha hương lặng người nghe tin Ngoại mất, tôi gặp lại bài thơ thấm thía một tầng sâu hơn lẽ được-mất và nghĩa lý nhân sinh. Rồi đến hôm nay, trả giá bao lần sống chết, nhìn thế nhân Mê trong Danh, Lợi, Tình, gặp lại họ Trần, thêm một lần cảm khái...
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu cái tên của tác phẩm "Bài ca khi lên đài U Châu"
Chữ "đăng" ở đây là đi lên, leo lên từ chỗ thấp lên cao: "đăng phong tạo cực 登峰造極 " là lên tới tuyệt đỉnh; "nhất bộ đăng thiên 一步登天 " là một bước lên trời. Phân biệt như vậy, bởi nếu dùng chữ "thượng" thì cũng là đi lên nhưng mang nghĩa trung hòa.
Chữ "đài" là chỉ kiến trúc cao, có thể nhìn ra bốn phía. Nó quy mô và có ý nghĩa hơn "lầu các". Thời nhà Hán, người ta gọi Thượng thư, Ngự sử, Yết giả là "Tam đài". Sau cũng gọi là Tam công. Vì thế lên tới chức vị Tam công gọi là đăng đài 登臺. Cũng phiếm chỉ sung nhậm chức quan cao. Trần Tử Ngang đã làm chức quan to trong triều. Nhưng với ông, "đăng đài" này mới thực sự là nơi ông nhận thức được giá trị chính mình, tự mình phong "tam đài" cho chính mình vậy!
Còn U Châu là địa danh nào?
Thực ra, các nhà thơ Đường luôn dùng các địa danh cụ thể để gửi gắm vào đó những ẩn dụ sâu kín nhất. Tập hợp các tài liệu tản mát, tôi biết được "U Châu đài": Là đài U châu do Yên Chiêu vương (?-279 trước CN) xây dựng ở đất Yên thời Chiến quốc nên còn gọi là Yên đài. Có chỗ giải thích rất sơ sài: đài U Châu là trạm gác nhỏ ở thành Bắc Kinh ngày nay.
Đáng lưu ý chú thích này: U Châu thuộc đất nhà Yên thời Chiến Quốc. Theo "Tấn thư địa lý chỉ" thì vua Thuấn lấy Ký Châu. Phía nam, bắc còn khá rộng, liền lấy phía Tây làm Tịnh Châu; phía bắc nước Yên sau này làm U Châu. Thời nhà Chu vẫn giữ nguyên như thế.
Cũng như Lý Bạch chia tay cố nhân Mạnh Hạo Nhiên của mình: ông lựa chọn địa điểm là lầu Hoàng Hạc; Sầm Than ngắm những bông hoa nở mỗi độ "xuân lai" trong vườn nhà Lương từ núi cao... Trần Tử Ngang gặp được địa vị Tam Đài của mình chỉ khi đi lên Đài U Châu mà thôi.
Mỗi địa danh trong thơ Đường có thể làm cho độc giả trở về với những triều đại thịnh suy, những con người hiền đức hoặc gian hùng; những giai thoại bát ngát trong khu rừng văn hóa Thần truyền 5000 năm đất nước Trung Hoa vĩ đại...
Sẽ mất quá nhiều thời gian để chúng ta đọc về Nghiêu, Thuấn; về vua Vũ trị thủy; về anh em nhà Chu diệt Trụ với Khương Tử Nha...
Chỉ cái đất U Châu ấy cũng gắn bó với bao người muốn nhìn lịch sử như những kinh nghiệm về lẽ thịnh suy, thời thế; về anh hùng bất hủ và hôn quân bạo chúa..
Bốn dòng thơ không chỉ kiệm lời, mà kiệm chữ tới mức tối đa. Nó dồn nén tới mức khó ai dám nói hết những ý tứ mà hơn 1300 năm người đời thưởng thức. Hai dòng đầu nói về thời gian (trụ). Hai dòng sau là không gian (vũ). Xâm nhập năng lượng vào trong cả 4 dòng đều có thấp thoáng bóng dáng, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Con người ấy, trong cái nhìn nhân thế thì rất cô đơn. Cô đơn cả trong thiên địa, không gian và cả trước/sau của thời gian vô thủy vô chung… Đặc trưng của thơ Đường là hàm súc. Để cho ý ở ngoài lời, các chữ phải được lựa chọn rất công phu. Chữ nào cũng chắc, không “lép”.
Riêng bài thơ này, các chữ nhiều lúc đứng riêng rẽ như một câu, một thông báo hoàn chỉnh. Đúng hơn, nó là một câu thơ lan truyền và hấp thụ trường năng lượng của một tứ thơ hoàn chỉnh. Có thể tách những con chữ này thành những hình tượng rất độc đáo. Tất cả các chữ mở đầu 4 dòng thơ đều đứng rắn rõi và tự tin một mình. Nó như cái cột trụ vững vàng thể hiện một thế đứng "duy ngã độc tôn" của nhân vật trữ tình để cho các ý tứ bám vào đây như dây leo mướt lá, sai nụ, rực rỡ những bông hoa...
Về nhịp có lẽ phải cắt như thế này mới thể hiện được thần thái bài thơ :
TIỀN// bất kiến / cổ nhân///
HẬU // bất kiến / lai giả ///
NIỆM// thiên địa chi du du//
ĐỘC // thương nhiên nhi thế hạ///
Có thể thấy 2 dòng đầu cảm xúc hướng ra ngoại giới. Hai dòng sau, cảm xúc hướng vào Tâm giới. Nó như một quan hệ nhân quả lo-gic.Lên cao, theo lo-gic thông thường là để có một nơi để phóng tầm mắt nhìn cảnh đẹp dưới chân mình, tìm được những cảm xúc kỳ thú để có thể nâng chúng lên thành những hình tượng nghệ thuật gửi gắm tư tưởng tình cảm thi nhân.
Thật bất ngờ, họ Trần lên cao là để nối ba chiều của thời gian theo một chiều dọc. Có phía trước, phía sau; có quá khứ, tương lai. Và có chỗ đứng của mình trên đài U Châu là hiện tại. Phóng tầm mắt ra phía trước (chứ không phải phía dưới) để nhìn quá khứ. Và ngoảnh lại tìm tương lai, tìm cái vị lai theo một véc-tơ ngược hướng. Lên cao là để nhìn thời gian trôi chảy, là nối tương lai, hiện tại và quá khứ. Hình như đây là cái nhìn ngược? Với người sáng tạo thì đây là sự khám phá độc đáo. Cái phía trước chẳng phải quan trọng hơn cái phía sau? Những gì đã trôi qua, những "cổ nhân" xưa kia đã từng tồn tại và có sự nghiệp như Nghiêu, Thuấn, Vũ; như nhà Chu rực rỡ... là những gì chúng ta đã biết. Thời oanh liệt ấy đâu còn đâu. Cổ nhân và trí huệ vĩ đại của họ, công đức của họ như vừa từ điểm xuất phát từ đài U Châu đã đưa nhau đi về tít tắp chân trời. Họ và thời đại của họ chỉ là truyền thuyết, không gặp được nữa rồi.
TIỀN,
BẤT KIẾN CỔ NHÂN
(Nhìn về phía trước, không thấy cổ nhân, không thấy người xưa đã một thời vang danh Thánh Hiền và sự nghiệp rỡ ràng)
Mục đích lên đài cao là để tìm Người. Đúng hơn là tìm những CON NGƯỜI với những mẫu tự viết hoa. Họ đã vì chúng sinh, vì con người mà làm nên sự nghiệp...
Trong văn hóa truyền thống của Trung Hoa, những cái mà hôm nay người hiện đại gọi là truyền thuyết có rất nhiều. Các thi sỹ xưa, các trí thức xưa, họ sống trong trường năng lượng của văn hóa tu luyện, họ nhận thức được đó là thứ văn hóa Thần truyền. Không nhiều thì ít ai cũng cảm nhận điều này, thực chứng điều này rất cụ thể. Xưa, Thần Phật, Đạo đã xuống nơi này, xây dựng một thứ văn hóa bán Thần. Giờ tất cả chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc, trơ đài U Châu...
Nhưng không thất vọng. Còn có phía sau. Chiều của Vị Lai. Nhưng khi quay đầu lại, trạng thái trống trải vẫn như khi nhìn phía trước, nhìn về quá khứ :
HẬU,
BẤT KIẾN LAI GIẢ
(Nhìn phía sau, không thấy những bậc lai giả)
Hai chữ Bất Kiến lặp lại nhưng Lai Giả lại là một đối tượng hoàn toàn mới.
Khi dịch:
"Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa đẻ "
Đã đánh đồng 2 đối tượng. Có buồn, có cô đơn khi đứng trên cao ở một cái đài U Châu nhắc nhở rất nhiều về lịch sử, người ta dễ tầm thường hóa tầm tư tưởng và nhân cách Trần Tử Ngang. Không sai, nếu đặt bài thơ vào tâm trạng của kẻ sỹ bất đắc chí không được thỏa cánh chim Bằng. Trần Tử Ngang là một đại quan không dễ nghe lời Vũ Hậu. Ông là cái gai trong mắt của vị Nữ Hoàng Đế đầy quyết đoán này. Hãy thử so sánh hai hành vi.
Võ Tắc Thiên vốn tên CHIẾU 照 nghĩa là soi sáng, soi rọi. Nhưng bà đã bắt thần dân phải viết chữ ấy theo một cấu trúc khác là 瞾.Phía trên là 2 chữ Mục, phía dưới là chữ Không. Ý nghĩa của chữ này là: Dưới hai con mắt của Võ Hậu không có ai, không có bất cứ cái gì được gọi là giá trị. Đúng là "Mục hạ vô nhân" Uy quyền của Võ cho đến hôm nay, thế kỷ 21 rồi vẫn còn ảnh hưởng. Trong từ điển người ta vẫn không bỏ được chữ do bà ban bố.
Nhưng dù sao thì cũng là cái nhìn, cái ngạo nghễ của người có quyền uy với những sinh linh trong triều đại mình. Những ai theo Đạo gia, theo Phật gia sẽ coi điều ấy như tấm cám. Quyền lực là chốn Mê lầm tích được nhiều Nghiệp báo nhất. Không có vương triều như Nữ Hoàng Võ Hậu nhưng con mắt của Trần tiên sinh lại muốn kiểm soát, nói đúng hơn lại muốn tương thông, viên dung cùng thời - không, cùng vũ trụ. Muốn làm bạn với "cổ nhân" như Nghiêu Thuấn đã là khí phách, hiên ngang. Nhưng muốn gặp Lai Giả thì tầm kích của con người này đã hòa vào trong vũ trụ.
"Lai giả" khiến ta nhớ tới "Như Lai". Nó được hiểu là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đã đến từ cõi chân như". Như Lai là danh hiệu chỉ một Thánh nhân đã đến bậc giác ngộ cao nhất.
Như vậy, "Lai Giả" ở đây là những Giác Giả, thậm chí họ là những Đại Giác Giả, những sinh mệnh cao tầng, có trí huệ, có pháp lực vô tỷ, có sứ mệnh thiêng liêng xuống độ nhân như Thích Ca Mâu Ni; hoặc xuống dạy con người Đạo và Đức như Lão Tử...
Sau khi Đức Thích Ca nhập Niết Bàn, hàng ngàn năm nay người ta thấp thỏm chờ đợi vị Như Lai của tương lai. Gặp được Đấng ấy phải có cơ duyên ngàn năm vạn đại mới có cơ duyên. Người ta chờ đợi dấu chỉ của Ưu Đàm hoa nở theo tiên tri của Đức Thích Ca…
Muốn gặp Lai Giả? Gặp Như Lai? Có ngông cuồng quá chăng?
Thực ra, một người Thiện lương tu luyện thấu hiểu những huyền vi của Tạo Hóa như Khổng Minh, như Lưu Bá Ôn, như Trạng Trình... hoàn toàn có thể tiếp xúc và có những cảm nhận siêu thường về sự "gặp gỡ" ấy. Đây là điều mà khoa học hôm nay giải thích không được, bèn gọi nó là Mê Tín.
Hóa ra trong hai tiếng BẤT KIẾN ấy đã chứa sẵn phản đề và bộc lộ cái mơ ước cao cả của một người thường muốn trở thành Thần Thánh, trở thành phi thường. Họ Trần vào thời điểm này "không thấy" nhưng trong khát vọng ông muốn mình "sẽ thấy".
Hai dòng sau bất ngờ thêm mỗi câu 1 chữ. Chuyển thể Ngũ Ngôn thành Lục Ngôn. Nó mềm hóa câu thơ, nó len vào đó tâm trạng. Càng buồn, khát vọng càng dào lên mãnh liệt.
Câu ba:
NIỆM,
THIÊN ĐỊA CHI DU DU.
Chính hai hư từ CHI và NHI với thanh bằng đứng vị trí thứ 4 trong dòng thơ đã làm cho tâm trạng đi vào chiều sâu thẳm. Chữ NIỆM ở đây là đặc trưng của tín ngưỡng. Nó có nghĩa là: nghĩ, nhớ, mong; chuyên tâm nghĩ ngợi; đọc tụng thì thầm. Đó là những điều tâm can được xuất phát từ trái tim thành kính đối thoại, câu thông của tiểu vũ trụ là cá nhân con người mình với vũ trụ rộng lớn là thiên địa, đất trời.
Tôi muốn cắt ngang chữ “Niệm” cho vào một thế giới. Họ Trần niệm gì, nói gì với Thần linh? Có bao nhiêu người đọc câu thơ thì sẽ có bấy nhiêu đáp án. Tuy nhiên, khi đọc liền mạch, ta có thể hiểu một cách giản dị: Sao mà thiên địa vô cùng vô tận, "chi du du" như vậy? Ta là ai mà đứng trong cuộc bể dâu này?
Câu thơ có 3 chữ NIỆM, DU, DU đều có chữ Tâm ở dưới. Nó làm cho sự ưu tư, sự suy niệm được tăng cấp.
Hai chữ "du du" dù hiểu như thế nào thì các không gian thiên địa cứ chập chùng mang mang khiến lòng người không yên.
Khi Thôi Hộ cho đám mây trắng ngàn năm tĩnh tại "không du du" thì tâm của ông đã chớm chạm cõi Tiên rồi!
Từ láy "du du" có nghĩa là: Thong dong tự tại, nhàn hạ, là xa xôi, vô tận; là liên miên, bất tận. Nó còn có nghĩa là lo lắng, phiền muộn, ưu tư...
Thiên địa trước sau đều trống không. Nhưng thử làm được đám mây trắng ngàn năm thung dung bay vào muôn ngàn thế giới thì đâu phải là trống rỗng? Muốn tìm gặp những cảnh giới hiện hữu cao tầng thì phải một Niệm thay cho vạn niệm. Phải dùng cái Không của Phật, cái Vô của Đạo mới có thể "không du du" trước đất trời thăm thẳm nhiều bí mật.
Câu bốn:
ĐỘC,
THƯƠNG NHIÊN NHI THẾ HẠ
(Một mình ta cô đơn, cô độc đứng giữa thời - không bao la. Niềm thương xót cứ tự nhiên mỗi lúc một nhiều. Vì thế mà nước mắt rơi xuống)
Lý Bạch sau này cũng "Độc tọa Kính Đình Sơn". Con đường “Ngộ” nhận ra chân lý gọi là Huệ Ngộ. Nó chỉ một mình tự chịu trách nhiệm, tự khám phá, chẳng cầu được ai. Tiểu vũ trụ là cá nhân mình hẳn nhiên là câu thông khăng khít với vũ trụ rộng lớn. Nhưng trong Mê, có cách nào để tìm ra và thấy những mối quan hệ nhân duyên ấy? Câu hỏi không dễ có lời đáp. Cái đáng nói là họ Trần đã có những câu hỏi ấy. Quan trọng hơn đã có những niệm đầu lóe sáng ánh vàng kim.
Nước mắt đau buồn khi chưa tìm ra chân lý, nó làm bao người nhỏ lệ. Nhưng trong tư duy phản đề nó làm cho bao người phấn chấn hơn để đi tìm tương lai, tìm Giác Giả mà Giác Ngộ!
Chữ xưa đã có Khốc (khóc thành tiếng) lại còn có Khấp (khóc không có tiếng, khóc thầm lã chã giọt châu: Thiên hạ hà nhân KHẤP Tố Như).
Chữ xưa có "Lệ" là nước mắt, lại còn có "Thế" cũng là nước mắt. Họ Trần đã khóc bằng nước mắt của thời cổ xưa, khi Thần và người sáng tạo ra những triều đại như cổ tích. THẾ là nước mắt nhưng xuất phát từ một nỗi niềm đau buồn lớn. Buồn cho người ta "Lệ" ứa; Bi cho người ta "Thế" tràn. Giọt nước mắt trong THẾ đúng là giọt nước mắt của Giác Giả, của Từ bi. Ai đó nói rằng, đại dương hôm nay chính là giọt nước mắt ngày xưa của Phật. Nhân loại đang tồn tại nhờ giọt nước mắt cứu độ ấy!
Bài thơ mở đầu" Đăng" nhưng kết thúc lại là "Hạ". Có phải nhà thơ chậm chạp đi xuống khi không tìm thấy vinh quang Tam Đài?
Tôi nghĩ đó là giọt lệ lớn, nỗi đau lớn khi biết mình và thế nhân vẫn sống trong Mê Mờ không nhìn thấy những giá trị vĩnh hằng, mãi bơi lội trong kiếp luân hồi nhân sinh? Lục tìm trên mạng, tôi thấy có một lời bình luận Khuyết Danh: "Thơ của Trần Tử Ngang có nỗi buồn man mác, thấu hiểu sự mênh mang vô cùng của trời đất, lẽ huyền vi của tạo hóa, sự thịnh suy được mất của các triều đại, sự biến dịch của nhân quả, sự ngắn ngủi hữu hạn của kiếp người. Cảm nhận được điều này ta mới thấy ung dung, an nhiên tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử của kiếp người…"
Cũng là cái nhìn truyền thống về bài thơ này. Khi đi vào thế giới tu luyện, tôi hiểu người xưa họ cảm xúc, suy nghĩ đều có trường năng lượng thuần chính chi phối.
Nếu Vương Chi Hoán khi lên lầu Quán Tước nhìn thấy sự tráng lệ, hùng vĩ của Mặt Trời trắng và dòng Hoàng Hà trắng xóa giữa biển khơi rồi muốn lên cao hơn nữa:
"Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thượng nhất tằng lâu"
Thì họ Trần điềm đạm hơn, ông nhìn thời, không thao thiết; trước hết là tự thương mình mà nhỏ giọt nước mắt vĩ đại. Một bên là "Thượng", một bên là "Hạ". Cả "lên" và "xuống" đều có tầm vóc của con người vũ trụ. Hai khoảnh khắc ấy là bất tử. Người đọc tự lựa chọn cho mình cái sự lên/xuống ấy trong đời.
Hai chữ "Thương Nhiên" nếu tách khỏi chữ và đọc ra tiếng, người ta rất dễ liên tưởng tới chữ đồng âm khác. "Thương Nhiên, Thương Khung" là đại vũ trụ. Nối kết tiểu vũ trụ với thiên địa thời không; nối kết với tầng cao hơn nữa là với đại khung ngoài cõi Thiên Hà...
Những người theo Đạo Gia và Phật Gia tu thành chính quả, thậm chí họ chưa có quả vị đang đứng trong Tam Giới, bao nhiêu người đã có những công năng đặc dị; họ được khai mở Thiên Mục để câu thông với các sinh mệnh cao tầng. Họ có những khả năng siêu phàm như Dao thị, Túc mệnh thông, Thiên nhĩ thông... Họ có thể nghe được những âm thanh thế giới khác, âm nhạc huyền diệu từ tầng trời khác; họ nhìn được những cảnh quan của thế giới xa xôi ngay trong thư phòng của mình. Đặc biệt, họ có thể nhìn thấy rõ ràng quá khứ và tương lai của sinh mệnh, của thời đại. Điều này giải thích cho ta về những tiên tri và những nhà tiên tri nổi danh như Lưu Bá Ôn, như Trạng Trình...
Các nhà thơ sau này khi nói tới thời gian ai cũng buồn, cũng vội vàng cuống quýt?
"Cái bay không đợi cái trôi
Cái tôi phút ấy sang tôi phút này"
(Xuân Diệu)
Họ đâu tin có thế giới bên kia? Đâu thao thức với miền tịnh không để "phản bổn quy chân"?
Cách hiểu phổ biến nhất được người Trung Quốc hiện nay hiểu vẫn là nhìn bài thơ ở lớp vỏ bề ngoài:
前不见古人,后不见来者。
念天地之悠悠,独怆然而涕下。
đã được định hình giá trị, có nghĩa là:
" 先代的圣君,我见也没见到, 后代的明主,要等到什么时候?
想到宇宙无限渺远,我深感人生短暂, 独自凭吊,我涕泪纵横凄恻悲愁!"
(nghĩa là: Thánh quân xưa tôi không thấy một ai cả, Minh quân ngày sau thì phải đợi đến bao giờ? Nghĩ đến sự miên trường vô hạn của vũ trụ trời đất mà tôi cảm nhận sự ngắn ngủ tạm bợ của nhân sinh, một mình, rơi nước mắt ...)
Đọc bài thơ, tôi cảm nhận họ Trần ở trên cao đã "mục kiến sở thị" được dòng thời gian lặng lẽ, âm thầm mà đầy sức mạnh quyết đoán đang bình thản trôi chảy. Vị Thần Thời Gian ấy đẩy những con thuyền lớn với xiêm y lộng lẫy, với réo rắt Thiều ca lời Thần thánh... Những triều đại cùng văn hóa bán Thần như đời Nghiêu, Thuấn, đời Thang, Chu... xa dần, nhưng không mất.
Thời gian vẫn thao thiết. Họ Trần đang dừng mái chèo lan quế để đợi chờ những con thuyền khác. Họ là những vị Thần, những Giác Giả tiếp tục tạo thêm triều Nghiêu, Thuấn, triều Chu…Chờ đợi để gặp những sinh mệnh vĩ đại và theo đó là những triều đại vĩ đại... Có nỗi buồn nhưng là cái buồn của những hy vọng cao cả. Đứng ở góc độ thế tục là như vậy. Ở cao tầng cách nhìn hẳn cho ta nhiều suy niệm triết học cao xa hơn.
Thời gian bình thản trôi theo chiều NGANG trên cao. Và từ trên cao, không gian cũng mở rộng đến vô cùng. Theo những suy niệm để đến những miền viễn du vô tận. Họ Trần không lẻ loi bởi ông thấy mình là lạp tử hòa tan và Thương Nhiên xanh thẳm...
Khi đọc bài thơ này, tôi thường nhớ tới 2 bài thơ khác của cùng tác giả. Muốn mọi người cùng đọc để hiểu mạch cảm hứng của họ Trần là thống nhất.
CẢM NGỘ 1 (Bản dịch Mai Lang)
Trăng mới biển tây mọc,
Âm dương phân định đây.
(U dương thuỷ hoá sinh.)
Phía đông tròn mặt nhật,
Hồn bóng đọng ngưng nay.
Thái cực sinh trời đất,
Nguyên sơ đã khuyết đầy.
Chất đi lượng ở lại,
Tam ngũ ai khôn bày.
CẢM NGỘ 2 (bản dịch của Ngô Tất Tố)
Thờ ơ xuân hết hè qua,
Chòm lan khóm nhược sao mà xanh xanh!
Rừng không, tươi đẹp một mình,
(U độc không lâm sắc, )
Cái bông đỏ thắm, cái cành tím tươi.
Lân la ngày bạc muộn rồi,
Gió thu hiu hắt bên trời thổi qua.
Úa tàn thôi hết mùa hoa,
Ý thơm rút lại còn ra trò gì!
Cũng cần chú ý chữ "U" trong âm Hán ở 2 bài này! Và cùng một cảm hứng,Thi Phật Vương Duy đã cho ta một kiệt tác "Mạnh Thành ao":
Tân gia Mạnh Thành khẩu,
Cổ mộc dư suy liễu.
Lai giả phục vi thuỳ,
Không bi tích nhân hữu.
Dịch nghĩa:
Mới dọn về nhà mới ở cửa thung lũng Mạnh Thành,
Cây cối chủ trước trồng, chỉ còn lại vài gốc liễu cỗi mà thôi.
Sau ta, ai sẽ là người đến ở nơi đây?
Ắt hẳn xót xa khi thấy những gì người trước để lại.
Dịch thơ ( bản dịch của Khương Hữu Dụng)
Mạnh Thành dựng một ngôi nhà
Dấu xưa còn lại năm ba liễu gầy
Biết sau ai ở chốn này
Ích gì buồn cảnh trước ngày có ta.
Cảm hứng buồn nhưng an nhiên trước lẽ thịnh suy của đất trời, của cõi nhân sinh khởi xuất từ Trần Tử Ngang. Theo sau họ Trần có nhiều tác phẩm lớn.
Đây là bài: LÂM GIANG TIÊN của Dương Thận đời nhà Minh:
Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông?
Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng,
Thị phi thành bại theo dòng nước,
Sừng sững cơ đồ bỗng tay không.
Núi xanh nguyên vẹn cũ
Bao độ ánh triều hồng,
Bạn ngư tiều dãi dầu trên bãi,
Vốn đã quen gió mát trăng trong,
Một vò rượu nếp vui gặp gỡ,
Chuyện đời tan trong chén rượu nồng.
Dù kể bao nhiêu trước tác khác đi nữa thì cũng chưa ai vượt được cái đa nghĩa, uyên áo, cái thích thảng của bài ca trên đài U Châu này. Và đặc biệt là, họ Trần đã cho ta "đồng tác giả " tham dự cảm nhận của riêng mình khi phối nhiều bè, nhiều nhạc cụ để hát cùng Ông!
Anh Vũ
-----------
* Trần Tử Ngang (năm 659 ~ 700 ), một trong những nhân vật cách tân thơ văn thời sơ Đường. Tự là Bá Ngọc. Vì đã từng nhậm chức Hữu thập di nên người đời sau còn gọi là Trần Thập Di. Thơ ông phong cách cao thượng, ngụ ý sâu xa, nét bút cứng cáp mạnh mẽ. Trần Tử Ngang khi còn trẻ, gia đình khá giả, xem thường tiền bạc thích làm việc tốt, khảng khái nghĩa hiệp. Khi trưởng thành ra sức đọc sách, học rộng hiểu nhiều. Năm 24 tuổi đậu tiến sĩ, nhậm chức Hữu thập di, thẳng thắn can gián. Thời gian chịu tang phụ thân, quyên thần Võ Tam Tư sai Xạ Hồng huyện lệnh Đoàn Giản La thêu dệt tội danh, sau bức hại, làm cho Trần Tử Ngang chết oan trong tù.