Bài thơ “Sở kiến hành” của Đại thi hào Nguyễn Du

Bài thơ “Sở kiến hành” của Đại thi hào Nguyễn Du
Dễ chừng tôi đã đọc "Sở kiến hành" của Nguyễn Du cả hơn chục lần rồi! Thời nhỏ, đạn bom loạn lạc, sơ tán hết đồng này núi nọ. Cơm khoai không có. Thức đêm vò võ nghe tiếng bom, tiếng pháo mà rùng mình. Nói gì đến trường, đến lớp. Ngoại tôi cầm theo được tập giấy dó, chỉ lâu lâu dạy cho vài con chữ Thánh Hiền.

(Ảnh: Kim Anh)


Bài thơ “Sở kiến hành” của Đại thi hào Nguyễn Du: Lẫn trong thập loại chúng sinh, Nguyễn không nỡ làm đau ngọn cỏ. 
(Tác giả: La Vinh)

 


Dễ chừng tôi đã đọc "Sở kiến hành" của Nguyễn Du cả hơn chục lần rồi! Thời nhỏ, đạn bom loạn lạc, sơ tán hết đồng này núi nọ. Cơm khoai không có. Thức đêm vò võ nghe tiếng bom, tiếng pháo mà rùng mình. Nói gì đến trường, đến lớp. Ngoại tôi cầm theo được tập giấy dó, chỉ lâu lâu dạy cho vài con chữ Thánh Hiền. 


Tôi sợ bài thơ này vì nó dài quá. Đọc cứ quên mặt chữ. Nhưng, tôi ngạc nhiên, không hiểu sao, mỗi khi khe khẽ đọc xong, ngoại tôi lại ra khỏi căn hầm Triều Tiên chật chội, hít sòng sọc điếu thuốc lào rồi vào tựa vách lim dim. Tôi nhìn thấy lấp lánh trên má ngoại một vệt sáng mờ nhờ ngọn đèn Hoa kỳ vàng như hạt đậu…


Sau này, vào cấp ba. Học bài thơ này như trâu bò nhai rơm. Thêm một lần tôi và Nguyễn ở hai khoảng trời xa ngái. Rồi trời an bài làm thầy giáo dạy văn. Cứ mỗi lần đụng bài này là tôi cho qua. Một là bắt trò chép lại những gì người ta viết. Hai là, bỏ luôn, không dạy. 


Vậy mà, hôm nay, đến tuổi "tri thiên mệnh" rồi; tròm trèm cái tuổi ngoại ngày xưa, Tôi lại ngồi ứa nước mắt khóc người đã xưa. Khóc cho Nguyễn để thương mình. Khóc cho bốn mẹ con ăn mày kia để thương cho mình hơn nữa. Bởi, hơn nữa đời phiêu bạt, so với bạn bè, danh phận không ra gì. Cả một kiếp sắp qua đi lại là kiếp ăn mày. Ăn mày chính mình mới là khắc khoải! 


"Sở kiến hành" là một bài Hành được làm trên con đường đi sứ của ông quan lớn được giao trọng trách sang triều cống cho nhà Thanh ở Bắc Kinh. Trên con đường vạn dặm đến đất nước Thiên Triều chỉ nghe nói qua thơ văn và các sách Thánh Hiền, Nguyễn Du đã mở rộng kiến văn của mình bằng thực tế.


Với 132 bài được sưu tầm, ta có thể coi đây là những trang nhật ký đi đường của Nguyễn. Chính ông cũng coi nó là "tạp lục" (ghi chép lộn xộn). Thế nhưng, nhiều nhà nghiên cứu đã cho "Bắc hành tạp lục" là những tác phẩm xứng đáng tầm cỡ của Đại thi hào! 


Người ta thường nói : một trong những khía cạnh vĩ đại của Nguyễn Du là ông đã cúi xuống nhìn con người khổ đau. Tôi cho rằng: Nguyễn không chỉ cúi xuống mà đã lẫn vào, hòa vào trong những ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh của kiếp người thống khổ. 


Hình tượng người ăn mày đã từng làm chúng ta xa xót từ "Văn Chiêu Hồn" với những giọt mưa rơi thấm lạnh mấy trăm năm:


"Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi.

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan"


Hình ảnh một nghệ sĩ mù ở Thái Bình gảy đàn hát thâu đêm sùi bọt mép để mong có  được bữa ăn buổi sáng; hình ảnh những người dân lưu tán mặt khô sạm vì đói… cũng là các dạng ăn mày mà Nguyễn gặp trên đất nước Trung Quốc. Và ông đã được ghi lại rất sống động. 


Tên bài thơ "Sở kiến hành" được dịch khá chính xác: "Những điều trông thấy". Nó gợi nhắc cho ta những câu đầu làm nền cho cảm hứng Truyện Kiều:


" Trăm năm trong cõi người ta

(...) Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"


Nói cho chính xác thì phải dịch là "Bài hành về những điều trông thấy".


Theo Triều Nguyên thì "Hành: là  bài thơ, thường đề cập đến những vấn đề chung, những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm trạng bức xúc, có thể bày tỏ thái độ, chính kiến; thể thơ cổ phong thường được sử dụng để sự biểu đạt không bị gò bó, ràng buộc."


Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng thể thơ 5 chữ (ngũ ngôn cố phong) để kể lại một câu chuyện. Ông nhìn thấy bên đường lớn kia có một người mẹ dắt díu ba người con đi ăn mày. Người con lớn nhất thì tay mang chiếc giỏ tre. Đứa bé nhất thì được mẹ ẵm. Họ sẽ làm mồi cho lang sói. Thương người mẹ, nhưng thương nhất là ba đứa con, "nỗi lòng đau đớn lạ thường, trông lên mặt trời như vì người mà vàng úa". Nhà thơ lại nghĩ đến hôm qua ở trạm Tây Hà, người ta cung đón cho đoàn mình nào là gân hươu, vây cá, thịt lợn, thịt dê đầy mâm cỗ. Các quan lớn không chọc đũa vào đã đành, mà kẻ tùy tùng cũng chỉ nếm qua, rồi đổ cho chó nhà hàng xóm, mà chó cũng chán chê không thèm ăn. Chẳng ai nghĩ đến cảnh bốn mẹ con nhà kia cùng cực đang đợi cái chết bắt đi.


Bây giờ, chúng ta hãy cùng đọc tác phẩm này qua bản dịch của Nguyễn Hữu Bổng. Mười hai dòng đầu là thoáng gặp ngẫu nhiên, bất chợt của Nguyễn Du về một hiện tượng không hiếm trên con đường xuyên Trung Quốc của quan chánh sứ:


1/Một mẹ cùng ba con,

Lê la bên đường nọ,

Đứa bé ôm trong lòng,

4/Đứa lớn tay mang giỏ.

Trong giỏ đựng những gì?

Mớ rau lẫn tấm cám,

Nửa ngày bụng vẫn không,

8/Áo quần vẻ co dúm.

Gặp người chẳng dám nhìn,

Lệ sa vạt áo ướt,

Mấy con vẫn cười đùa,

12/Biết đâu lòng mẹ xót?


Cái nhìn từ xa đến gần. Từ một hiện tượng lạ gây chú ý đến một sự thu hút thật ám ảnh. Thực ra, ngay 2 dòng đầu, ta đã thấy cái nhìn rất riêng của Nguyễn:


"Hữu phụ huề tam nhi,

Tương tương tọa đạo bàng".


Nguyễn không dùng "mẫu" (mẹ) mà là "phụ" ( người vợ, người đã có chồng) với nhiều  ngụ ý: 


"Một người vợ dắt díu ba đứa con".


Nhìn từ bên này sang bên kia đường thì họ ở tầm tương đối xa, Nguyễn Du mô tả:


"Họ mới được dừng lại nghỉ ngơi bằng cách ngồi bên vệ đường lớn".


Chữ "tương" thứ nhất nghĩa là "cùng, là phản ánh sự kiện cho người bên kia nhìn thấy". Chữ "tương" thứ 2 nghĩa là "thấy, mới, nghỉ ngơi".


Tưởng là 2 dòng tường thuật giản dị. Ai ngờ đã có cặp mắt của một nhà nhân đạo vĩ đại. Chi tiết thì nhỏ nhưng ý nghĩa thì lớn. Ta phải tự trả lời: Người vợ xuất hiện với sự đùm túm dắt díu ba con ở bên đường gió bụi, đơn thân. Vậy thì người chồng là trụ cột gia đình, là chỗ dựa vững chắc cho kinh tế và tinh thần của vợ và con đang ở đâu mà để xảy ra cảnh tan đàn xẻ nghé này? 


Hãy đọc một đoạn trong "Trở binh hành" trong "Bắc hành tạp lục" thì chắc có câu trả lời:


"Cát bụi cuộn mặt trời che khuất 

Bộ, kỵ binh chạy dọc chạy ngang 

Kỵ binh cung cứng sừng cong 

Tên dài đầy ống màu lông trắng ngần 

Bộ binh lại tay cầm dao ngắn 

Gươm mới mài có gắn tua hồng 

Lại thêm khí giới tân binh 

Chặt tre làm giáo vỏ xanh tươi màu 

Xe lớn chở cung dây đầy ắp 

Xe nhỏ thì chở rặt chông dài 

Suốt ngày đi mãi chẳng ngơi 

Cả hàng trăm dặm bời bời binh đao"


Đâu đâu cũng loạn lạc. Ngay cả phái đoàn đi sứ của Nguyễn cũng phải tìm cách vượt khỏi sự cản trở của binh đao. Kị binh, bộ binh và cả các tân binh cùng với đủ xe lớn xe nhỏ cung ứng cho chiến trường… Làm sao không mất mùa? Làm sao không loạn lạc? 


Người chồng ấy là cựu binh? Là tân binh? Hay đã là một người vừa dãi thây ngoài chiến địa?... Chỉ biết 4 mẹ con thật thê thảm. Họ lấy vệ đường làm nhà lưu động; lấy sự dắt díu nhau như bèo dạt mây trôi làm tổ ấm; lấy xin ăn may rủi để tồn tại... 


Như người bóc tách từng tầng củ hành tây. Nhà thơ tiệm cận vào các thành viên trong gia đình khốn cùng đó:


Một đứa đang ẵm trong lòng mẹ ắt hẳn là còn rất nhỏ. Nếu không còn phải bú thì chân còn chập chững, không thể theo cuộc hành trình mưu sinh của nghề cái bang! Vì còn nhỏ quá cho nên đứa bé chỉ cần ăn, ngủ và chơi là đã thực hiện hết bổn phận của nó!


Đứa lớn có lẽ cũng chẳng lớn bao nhiêu. Bởi đứa thứ hai không nói đến. Nhưng nó đã có thể "lớn nhất" có thể trong vai trò giúp mẹ. Nó cầm giỏ để đi ăn xin...


Đôi mắt nhân đạo của nhà thơ đã bóc tách lớp thứ ba của hiện thực. Cái giỏ tre đựng những gì mà trông như nặng thế, xùm xuề nhiều thứ thế?  


"Khuông trung hà sở thịnh?"


Chữ "thịnh" nghĩa là: Đầy, nhiều, hưng vượng, phồn vinh, phong phú. Hóa ra chỉ có một mớ rau lẫn với tấm cám! 


Trong nguyên tác:


"Lê hoắc tạp tì khang"


Thực ra, trong giỏ tre của đứa trẻ có 4 thứ "tạp phí lù" trộn lẫn lộn xộn với nhau. Rau Lê, rau Hoắc và rau Tỳ đều là những thứ cây cỏ dại mọc hoang nơi ngóc ngách bẩn thỉu. Chúng là thứ thực vật thảng hoặc người ta dùng vị đắng, vị chát của nó làm thuốc chứ để ăn thì... trâu bò cũng còn chê!


Chữ KHANG ở đây là trấu, là những vảy trấu .Nó còn có nghĩa là những gì xốp rỗng không trọng lượng. 


Nhìn thực đơn của bữa ăn sắp sửa. Có thể mường tượng bữa ăn hôm trước. Chắc khấm khá hơn. Do làm thuê hay do ai cho mà mẹ con mới có chút năng lượng của tấm cám. Những vảy trấu vàng còn lẫn với rau Tỳ cho ta suy đoán như vậy. 


Cũng cần lưu ý, hai thứ rau Lê và Hoắc có thể gọi là rau dại bởi chúng mọc ở ruộng vườn. Riêng lá cây Tỳ chính là lá cây Sơn Trà. Loại cây này còn có tên là cây Chua Chát, cây Gan hay Táo Mèo, Táo Gai được dùng làm thuốc ở cả phương Đông và phương Tây hàng chục thế kỷ qua. Cây Tỳ này thường trồng bên đường hoặc trồng làm hàng rào…


Có hiểu kỹ như vậy mới biết được bữa ăn trước đó có Tỳ Khang (lá Sơn Trà và tấm cám có vỏ trấu). Biết đâu 4 mẹ con có thể hái được những quả Táo Gai?


Nhưng bữa hôm nay có Lê và Hoắc là hai loại rau Đắng và Chát trộn với lá Tỳ Chua còn sót lại với vỏ trấu... Sự kiệt cùng đang đẩy mẹ con đến bước đường cùng! 


Nhà thơ chỉ nhìn giỏ rau mà biết:


"Nhật yến bất đắc thực,"


Ngày đã muộn, trưa đã đến rồi nhưng không được ăn. Hai chữ "Nhật yến" có nghĩa là trời trong mây tạnh. Bởi vì tiết lạnh nên buổi trưa mới có được bầu trời đẹp thế này. 


Quả là trời đất quá vô tình với sinh mệnh mỏng manh của những người đói khát! Bao nhiêu người no đủ đang thưởng lãm bầu trời. Nguyễn Du nhìn nó mà thấy cay đắng cùng bốn mẹ con khốn khổ! 


Bất ngờ nhà thơ mô tả cách ăn mặc và dáng điệu của họ:


"Y quần hà khuông nhương!"


Bản dịch: "Áo quần vẻ co dúm."

Có nơi dịch: "Áo quần thật lam lũ."


Thực ra, chữ "khuông" ở đây là cái gọng (kính), cái khuôn đã cố định, đã bó buộc trong một hình thức; chữ "nhương" là "Cầu cúng để trừ khử tà ác hoặc tai dị".


Cả mấy mẹ con  mặc quần áo như của những người cúng tế. Bốn con người ấy như một quần tượng đang xin ông Trời cho họ qua những tai dị mà mình chịu đựng! Họ nhẫn nhục chịu đựng bất hạnh và cầu sự dung thứ của ông Trời! 


Tiếp theo, nhà thơ dùng thủ pháp đối lập để cho thấy nghịch cảnh:


"Kiến nhân bất ngưỡng thị,"


Nhìn người, không dám nhìn thẳng, nhìn lâu. Chữ "ngưỡng thị" ở đây đối lập với "miệt thị ". Đôi mắt người mẹ muốn tỏ ra sự thành kính, muốn chờ đợi sự cảm thông của người nhưng sợ sự miệt thị nên đành phải giấu kín thái độ ấy của mình. 


Người xưa thường dùng hai tiếng "ngưỡng thị" để chỉ sự kính mộ Thần Phật. Cho nên thường dịch là "ngửa mặt lên nhìn". Trong "Tây du kí ": Nhược kiến liễu Bồ Tát, thiết hưu NGƯỠNG THỊ . Chỉ khả đê đầu lễ bái (若見了菩薩, 切休仰視. 只可低頭禮拜)  Nếu trông thấy Bồ Tát, quyết chớ ngửa mặt lên nhìn. Chỉ nên cúi đầu lễ bái.


Hành động cúi đầu tiếp theo của người mẹ cho ta gặp tâm hồn Thiện Lương chân chất của chị. Với những người mà chị cầu cạnh để xin ăn, chị coi họ như Bồ Tát cứu sinh rảy nước cam lồ cho thân phận bốn mẹ con vậy! 


Lệ lưu khâm (vạt áo trước) lang lang 


Hai chữ "lang lang" 浪浪 có nghĩa là nước chảy băng băng, là những con sóng nhấp nhô. Ở đây, "Lệ chảy vạt áo trước ngực như những đợt sóng lớn".


Phải là nước mắt rất nhiều mới cuồn cuộn như sóng nước Trường Giang như vậy! Ai cũng biết rằng đây là biện pháp tu từ "nói quá". Nhưng, có lẽ chính bằng cách này mà Nguyễn Du nói thấu triệt được sự tức tưởi, đau đớn khôn cùng của người mẹ. Tưởng như mọi con sông lớn, mọi biển khơi xa đều dậy sóng để tả nỗi ngổn ngang đau đớn không cùng của người mẹ.


Có lẽ, Nguyễn Du đã nhìn thấy người vợ thiếu chồng ấy khóc thảm thê. Tấm thân gầy và bộ ngực lép của chị cử động nhấp nhô theo từng cơn nức nở nên Nguyễn nhìn ra sông lệ, sóng lệ? 


Có lẽ nước mắt ấy bị dồn nén cho đến cái tới hạn của bữa cơm cuối cùng nên nó mới chảy nhiều như vậy? Và có thể, ý thức được nước mắt đang rơi xuống người con còn ẵm trong lòng mà người mẹ ấy thê thiết đứt gan ruột. Khóc xuống mình con mà có cứu được con đâu? 


Chỉ cần nhìn dòng thơ chữ Hán tất cả  5 chữ thì  4 chữ có bộ THỦY. Và chữ KHÂM chứa chữ Kỳ (Y) vốn nói về lễ phục bái vọng Thần Linh,chúng ta đã có thể khóc cùng người mẹ này rồi. Đây là ưu thế của phép lặp trong chữ Hán mà chữ ghi âm chúng ta không có: 淚流襟浪浪 - Mẹ thì nước mắt xối như mưa nhưng:


"Mấy con vẫn cười đùa,

Biết đâu lòng mẹ xót?'


Có thực là 3 đứa trẻ cùng vui đùa? Và chỉ một mình mẹ nó xót thương đớn đau đứt ruột? Với lại, đến bữa rồi mà cái bụng chưa được ăn liệu chúng có đủ sức mà vui cười?


Theo tôi, chỉ có đứa trẻ kia được bú. Dù là đang vắt kiệt sức tàn cuối cùng của mẹ nhưng nó đủ hồn nhiên để vui cười. Có chăng thì đứa thứ hai đang gượng đóng kịch để dỗ em, đang dùng tiếng cười vô tâm ấy làm món tinh thần thay cho bữa cuối cùng của cả nhà!

 

Từ một người kể chuyện đứng bên ngoài sự kiện, Nguyễn Du đã nhập hồn vía mình vào trong nỗi lòng người Mẹ, nói thay cho Mẹ. Đó là đoạn 2 của bài hành:


13/Lòng mẹ xót vì sao?

Đói kém phải phiêu bạt.

Nơi đây mùa khá hơn,

16/Giá gạo không quá đắt.

Quản chi bước lưu ly,

Miễn sống qua thì đói.

Nhưng một người làm thuê ,

20/Nuôi bốn miệng sao nổi!

Lần phố xin miếng ăn,

Cách ấy đâu được mãi!

Chết lăn rãnh đến nơi,

24/Thịt da béo cầy sói.

Mẹ chết có tiếc gì,

Thương đàn con vô tội,

Nỗi đau như xé lòng,

28/Trời cao có thấu nổi?


Đọc 3 câu nguyên văn bằng chữ Hán, cảm giác xót xa đến trào nước mắt:


"Quần nhi thả hỉ tiếu,

Bất tri mẫu tâm thương,

Mẫu tâm thương như hà?"


Những đứa con thì "Quần nhi hỉ tiếu" mà mẹ của chúng thì nỗi bão giông xâu xé. Hai câu thơ có kết cấu xoay vòng. Người Mẹ cố dứt khỏi vòng xoay định mệnh thì vòng quay ấy siết càng chặt, càng kéo mẹ vào gần tâm của chiếc máy vô tình tàn nhẫn ấy! 

Mở đầu là "Bất tri" (không biết) và kết thì lại càng rối loạn "như hà" (như thế nào? Vì sao?)


Cả một cụm từ "mẫu thương tâm" (mẹ đau xót tấm lòng" được lặp lại cho thấy cái quẫy đạp trước lúc chết của mẹ chính là nỗi đau khôn cùng của tình mẫu tử. 


Câu thơ đầu Nguyễn Du khách quan gọi người đàn bà này là PHỤ (vợ). Đến đây người ấy được gọi là MẪU (mẹ)


"Mẫu tâm thương... Mẫu tâm thương... " ngổn ngang lòng Mẹ. Vĩ đại thay, tấm lòng của người Mẹ …


Nguyễn Du ơi! Người làm ta rớt lệ đến trăm lần... 


Không biết ông quan Chánh Sứ dừng chân được bao lâu ở bên này đường để nhìn 4 mẹ con bên kia mà ông dường như đọc được hết cả một thân phận con người. 


Có người nói Nguyễn Du đã tiếp cận, đã đối thoại được với người đàn bà kia nên ông mới tỏ tường đến vậy. Theo tôi, khả năng này rất khó xảy ra. Chỉ có một trái tim nhân đạo thật vĩ đại, nhà thơ mới hiểu được hoàn cảnh nào đẩy đưa gia đình này tới tuyệt lộ.


Thực ra, là người ngoại quốc, là Thượng Khách nhưng hầu như không có gì lọt khỏi cặp mắt sắc sảo của Nguyễn Du. 


Bối cảnh loạn lạc, dân tình đói khổ. Người ăn xin la liệt. Và cụ thể đến mức Nguyễn đã nhìn thấy người chết đói ngay trên đường lớn. Khi chết, hạt táo gặm hết thịt, lăn nằm cạnh người:


"Nơi đây hạn hán mất mùa 

Hồ Nam. Hồ Bắc không mưa lâu ngày 

Cả trai gái mặt mày xanh mét 

Cám làm cơm, canh rặt rau lê 

Thây ai chết đói giữa lề 

Còn nguyên hột táo lăn ra giữa đường 

Vách nhà trống còn in rõ chữ 

Hàng mấy trăm hộ đói chết lần 

Khổ thay cho phận người dân 

Chén cơm manh áo chẳng cần tử sinh"

(Trở binh hành -Trương Việt Linh dịch )


Vì thế, Nguyễn biết người phụ nữ này đã bỏ quê hương mất mùa đói kém để đến với  "dị hương". Nơi đây không mất mùa, giá gạo không đắt đỏ. Nơi đây, nếu dùng sức lao động của mình có thể chạy bữa được cho cả nhà. Nơi đây là cái phao cấp cứu cho mình sóng qua cơn đói kém rồi sẽ liệu về cố hương... 


Đó là tính toán rất lành mạnh của một người lao động đã chịu quá nhiều bất hạnh. Người Mẹ tin mình sẽ làm được điều đó. 


Nhưng thực tế lại đâu giống như tưởng tượng. Người Mẹ phát hiện ra cái thực tế kinh người: Một mình thân yếu liễu tơ lại dắt díu 3 đứa con thì không thể nào dùng sức lực càng lúc càng khánh kiệt để nuôi 4 miệng. Đói đầu gối phải bò. Không còn cách lựa chọn nào khác, Mẹ phải dắt đàn con đi ăn mày. 


Khi mà ăn mày nhan nhãn khắp nơi, người chết đói khắp nơi, tình thương của con người là thứ xa xỉ thì người Mẹ hiểu rằng: Lần theo những con đường nhỏ loanh quanh vắng người, với sự mặc cảm không dám mở lời với kẻ đối diện thì: "Cách ấy đâu được mãi". Không biết đây là lời của Nguyễn Du hay là tiếng nói bên trong của người mẹ:


"Cảnh chết lăn bên ngòi rãnh, trông thấy trước rồi.

Máu thịt nuôi sài lang."


Đứng trước tình huống, cái đói thành bản án tử hình không tránh khỏi, người Mẹ không sợ chết:


"Mẹ chết không đáng tiếc,"


Chỉ đau buồn cho bầy con của mình:


撫兒增斷腸 (Phủ nhi tăng đoạn trường) 


Càng vỗ về âu yếm với con bao nhiêu thì càng tăng thêm những nỗi đau đứt ruột, nát gan. Lòng Mẹ bao giờ cũng vĩ đại. Nhưng khi người Mẹ bộc lộ những cử chỉ Thiên Tính nhất mà đành tuyệt vọng. Chúng ta cảm nhận được nỗi đau vô bờ, vô bến. Vâng:


"Vỗ về con mà càng đứt ruột

Lòng đau xót vô cùng,"


Ở trên, có câu thơ tả mặt trời thật trong xanh thoáng đạt:


日晏不得食 (Nhật yến bất đắc thực) 

Mặt trời trong lành thế mà mấy mẹ con chưa được ăn bữa trưa! 


Thời gian chỉ mới trôi qua thoáng chốc mà mặt trời cũng vì người mà đổi thay đến kinh hoàng:


天日皆為黃( Thiên nhật giai vi hoàng). 

Mặt trời nhìn thấy mấy mẹ con sắp chết mà trở nên vàng úa!


Quả là "cảnh tự tâm sinh". Nỗi đau đã thấu cả vũ trụ!  Đĩa mặt trời cũng vàng bủng như người sắp chết! Mạch cảm hứng của bài thơ bỗng dưng chuyển hướng rất đột ngột. Nhà thơ nhớ tới câu chuyện "đêm qua". Và mình là người trong cuộc.


Trước hết, thật bất ngờ là cơn gió lạnh, gió như từ cõi âm bỗng dưng nổi lên:


"Âm phong phiêu nhiên chí",


Cơn gió làm ta rờn rợn như mang âm hồn:


"Ào ào đổ lộc rung cây " (Kiều) 


Cơn gió khiến cho Người Đi Đường bi thương, đau buồn đến mức phải kinh hoàng sợ hãi 


"Hành nhân diệc thê hoàng".

(Gió lạnh bỗng đâu về

Khách đi đường rầu rĩ,)


Nguyễn Du không ngẫu nhiên, bỗng dưng mà nhớ:


"Đêm qua trạm Tây Hà

32/Mâm cổ sang vô kể?

Nào vây cá, gân hươu,

Lợn dê mâm đầy ngút,"


Một bữa tiệc toàn những sơn hào hải vị; toàn những món ngon không biết lấy bao nhiêu tiền sưu thuế của dân đen để có. Ấy vậy mà:


"Quan lớn không gắp qua,

36/Các thầy chỉ nếm chút."


Quan lớn và những tùy tùng tay chân của quan rất hững hờ với bữa tiệc. Hai câu thơ gợi cho ta thấy sự xa hoa, thừa mứa, vô liêm sỉ của lũ quan to nhỏ trong trạm Tây Hà đêm qua.

Với bọn chúng, ngày nào cũng là tiệc, ngày nào cũng phủ phê. Gan Trời phổi muỗi nào chúng cũng đã xài, thường xài. Và đã chán xài. Vì thế:


"Thức ăn thừa đổ đi

Quanh xóm no đàn chó,"


Câu thơ: 撥棄無顧惜 ( Bát khí vô cố tích) cho thấy cái chặc lưỡi của nhà thơ. Tất cả bữa tiệc dường như còn nguyên vẹn ấy người ta gom lại, dứt khoát bỏ đi mà không hề tiếc của, không hề xuýt xoa! 


Nó khiến cho đàn chó nhà hàng xóm ăn riết rồi chán cả cao lương: 鄰狗厭膏粱 (Lân cẩu yếm cao lương).


Sự mô tả về sự phung phí của quan lại trong đêm đãi yến ấy tạo ra một liên tưởng bất ngờ:


不知官道上 (Bất tri quan đạo thượng 

有此窮兒娘 Hữu thử cùng nhi nương) 


Không biết trên đường quan, có NHI NƯƠNG cùng cực này! 


Người phụ nữ ăn mày bắt đầu được Nguyễn Du gọi là Phụ( vợ), tiếp theo ông gọi Mẫu (mẹ). Và giờ đây ông gọi NƯƠNG (người con gái trẻ). Nguyễn đi sứ tuổi ngót nghét 50. Ông coi người mẹ trẻ ấy như con cháu mình? Ông nhìn thấy cái Đẹp trong nhân cách người mẹ mà cảm nhận cái đẹp của hình thể? Ông hy vọng nhà vua sẽ nhìn được bức tranh và số phận của bốn mẹ con có thể được cứu?... Thật khó nói về cái chữ Nương rất bất ngờ này! 


"Biết đâu bên đường quan,

40/Có mẹ con cực khổ!"


Nếu theo dõi chữ Hán ta thấy hai chữ "quan" ở "Trưởng quan" (quan lớn) và "quan đạo" (đường quan) có mối liên hệ tương phản trớ trêu: Trong nhà cao cửa rộng, quan lớn không buồn đụng đũa những món cao lương; quan sai người đổ cho chó ăn. 


Nhưng trên đường Quan thì có 4 mẹ con cùng đường đang lâm vào tuyệt lộ; sắp dùng máu huyết của mình để nuôi sói hoang, thú dữ (sài lang)


Ai là Sài Lang, là thú hoang, là lũ "nhai xé thịt người ngọt xớt như đường?". Liên tưởng câu thơ trên:


"Huyết nhục tự  sài lang" (Máu thịt của bốn mẹ con ăn mày làm thức ăn chăn nuôi cho lũ sài lang!).


Chữ TỰ (cho ăn, chăn nuôi) ở đây đầy ngụ ý! 


Rõ ràng, với cách nói vừa nghiêm khắc vừa bóng gió Nguyễn Du đã nhìn ra cái nguyên nhân tạo nên số phận bi đát của bốn mẹ con ăn mày. Đó là cái bi đát của Nhân Dân khi sống dưới ách của bầy lang sói hai chân. Càng loạn lạc, càng nghịch cảnh chúng càng có cơ hội để làm giàu và phè phỡn trên nỗi đau của những con người xứng đáng được viết hoa chữ NGƯỜI! 


Hai câu cuối nhắc về một điển tích trong "Tống Sử": khi Vương An Thạch làm tể tướng, hạn hán mất mùa, dân tình đói rét. Họ phải dỡ nhà bán. Ăn mày kéo đi đầy đường. Tình cảnh triều đình đầy phe phái cộng thêm thiên tai không ngừng như vậy, nên quyết tâm thực hành tân pháp của Tống Thần Tông  dao động Năm Hi Ninh thứ 7 (1074), phương bắc gặp hạn hán  càng nghiêm trọng, quan viên Trịnh Hiệp trình lên Tống Thần Tông một tranh về lưu dân, cảnh tượng trong tranh rất bi thương, Tống Thần Tông bị tác động mạnh về tâm lý. Ngày hôm sau, Tống Thần Tông liền hạ lệnh bãi bỏ một số điều. Tống Thần Tông và Vương An Thành bắt đầu không tín nhiệm nhau nữa.

Không có một Trịnh Hiệp của thời đại đầy sài lang, hùm hổ, Nguyễn Du đành thay ông ta vậy:


"Ai vẽ bức tranh này

42/Dâng lên nhà vua rõ!"


Bài Sở Kiến Hành dường như đã làm chất xúc tác cho nhiều tác phẩm sau này. Trên trang Đại Kỷ Nguyên có hai bài thơ của Anh Vũ lấy cảm hứng từ những điều Nguyễn Du đã nhìn thấy…


Bài thứ nhất, tác giả không ngủ, cùng Nguyễn Du xưa thao thức:


ĐÔNG VỀ CHO TA GẶP TIỀN NHÂN


..."Những chấm lạnh theo gió lùa hun hút

Cõi nhân gian, đêm Đông lạnh đủ mười

Chợt nhớ Nguyễn trên con đường đi sứ

Ba mẹ con, lẩy bẩy tấm thân người…  


Qua lọng gấm thi nhân tìm câu hỏi giữa trời

Mây xám xịt vây trái cầu vàng úa

Võng giá đi ngang phồn hoa đỏ phố

Trong tim Tố Như có ba mẹ con đói khổ …


Một đứa ẵm trong lòng, một đứa tay mang giỏ

Rét cắt da, áo tơi tả gió

Một bữa tiệc trạm Tây Hà

Vừa huyên náo đêm qua,

Nguyễn run tay gắp đũa…


Sao Nguyễn ơi,

võng lọng đã đi xa

Ba mẹ con ăn mày

Nguyễn nhìn trong thoáng chốc

Mà Nguyễn thấy được trong giỏ kia

Rau cải trời lấm vài ba hạt tấm

Của những ngày họ phiêu bạt phải xa quê?"


Bài thứ hai: ƯỚC SAO TRỞ LẠI TRỜI ĐÔNG ĐẤT BẮC cho người đọc về lại một mùa đông đã xa. Thuở ấy đứa trẻ theo bà đi chợ nhìn thấy hai mẹ con ăn mày bên gốc sung đầu cổng. Đứa bé xin mấy xu tiền vốn mua mít mua na để cho họ. Bà kéo tay đi. Khi chợ vãn, bà cháu quay về thì người con đã chết. Kỷ niệm ấy ám ảnh suốt đời cậu bé.  Chỉ khi làm người tu luyện, đứa bé xưa  giờ đây mới  tin linh hồn là bất tử. Cậu cầu niệm và cậu đã gặp được hai người thăng hoa lên cảnh giới cao:


...."Ta muốn qua cổng chợ vắng hiu,

Ngồi cầm cập góc sung già kín gió,

Có mẹ con ăn mày,

Áo nâu vá chằng, vá đụp,

Quay hướng nào cũng kìn kịt lạnh lay,

Những ngày ướt gió..


Ta lần chần,

Bà ngoại níu tay,

Kéo về cuối chợ.

Rét làm sao những kiếp ăn mày!

Nó đè nặng đời ta, đẳng đeo như món nợ…

Óc ách những nốc thuyền

Dầm mưa phùn, sóng vỗ…


Có một ngày,

Những dấu chân bùn lầy loang lổ.

Người mẹ thất thần,

Nhìn manh chiếu dưới gốc sung…

Mưa lùng nhùng,

Nối hai bờ sông La,

giăng giăng trắng xóa…

Ta hờn giận bà,

Một ngày câm nín.

Ôi những đồng xu,

Sao mua mít, mua na?


Cho ta về lại với mùa Đông sông La,

Ngắm trăng lạnh nặng nề lăn lên dốc

Tâm hồn trẻ thơ có giúp sáng thân Trăng?

Kiếp người ơi, sao cứ mãi nhọc nhằn?


Xuân đến Hạ

Bệnh, rồi đến Tử

Trò chơi con Tạo

Chiếc cầu bập bênh.

Kiếp phù sinh,

Như chiếc bánh Luân Hồi .

Cắn Tân Khổ vào Tâm,

Mà tưởng ngọt bùi.


Ai đã ngồi dưới gốc sung mà chết đói?

Ai thừa thãi bạc vàng,

Đôi mắt dửng dưng

Phủ đầy bóng tối?



Ngày ấy qua rồi,

Muốn quên ngày ấy.

Múi mít sao không thơm?

Mắt na sao run rẩy?

Người mẹ kia có còn ngồi đấy?

Để hôm nay về đây

Ta thắp nén Từ tâm!"


"Đại Nam chính biên liệt truyện" đã kể cái chết của Nguyễn Du thật lạnh lùng và bí hiểm: “Đến khi bệnh kịch, không chịu uống thuốc, sai người nhà mở duỗi chân tay, nói đã lạnh cả, Du bảo rằng “tốt”, nói xong thì chết, không nói một câu nào đến việc sau khi chết”. 


Văn chương của Nguyễn không chết. Nỗi đau đời, tình cảm yêu thương và sự trân quý sinh mạng, trân quý nhân cách con người vô bờ bến của ông sẽ khiến ông bất tử. 


Bài Sở Kiến Hành đã lặp lại hai chữ DỊ HƯƠNG. Người mẹ vì miếng ăn mà phải bỏ quê hương đi đến Dị Hương miễn sống qua thì đói. Trong khao khát khi rời quê chắc hẳn có ngày mong gặp cố hương. Chữ Dị không hứa hẹn bất cứ cái gì tốt đẹp. 


Giữ được Đạo Đức truyền thống, văn minh con người mới phát triển. Yêu và hiểu Nguyễn Du là chúng ta đang trên đường lớn về nhà. 


Người Việt muốn hạnh phúc, theo tôi, trước hết phải có linh hồn Việt, văn hóa Việt. Đến với chữ Dị chúng ta sẽ đến với khổ đau. Dù ai đó có đủ sang giàu vẫn là kẻ ăn mày, vẫn là người không đủ niềm tin để vượt qua thử thách.