- Trang thơ
Viết trước thềm đông
Thứ tư - 18/11/2020 21:58
(Ảnh: Trần Bảo Toàn)
Ngày quầng thâm đôi mắt gió hao gầy
Đêm dãi dề nấc tiếng lòng thoảng buốt
Cơn bão rớt cuối trời Nam vọng nhắc
Thêm một lần đất Bắc cận kề Đông!
Sóng mung lung lai đáo chật lòng sông
Lũ ép mình, quặn dòng sâu, tới tận cùng quên lãng
Ai bỏ bùa mê khiến bước đêm xàng xê giữa bóng ngày chạng vạng
Biết chọn gì cho mùa mới đây tâm?
Lại đối cảnh sinh tình sinh sự bâng khuâng.
Nghe những mảng màu thời gian đậm đầy sắc nhớ.
Lời thệ xưa vẫn niệm hoài trở trăn trăn trở.
Tâm nhiễu phiền khơi nhịp phách biêng biêng.
Trang Chu nuối gì trong giấc bướm mơ tiên
Mà vẩn vơ nhọc nhằn quẩn quanh thân lữ thứ
Lý Bạch nhấp trăng suông, đối cảnh tri tâm, một mình với màn đêm nhạt nhòa sương phủ
Cố hương mỏi mòn, tĩnh dạ hạo nguyệt bôi.
Chấp làm chi chút muộn phiền tiếc nuối lạc trôi
Cả ước vọng hoài mong hơn một lần đã khứ về dĩ vãng
Tâm tình dắt ta đi qua bão giông, suốt dặm dài năm tháng
Phút cuối rồi… buông nhé, chẳng phân vân!
Ta trở lại với xưa sau một quãng đường trần
Quên những lo toan trở trăn ngàn năm hợp tan giấc khuyết
Gom tháng ngày thảo thơm dệt vầng hương nhật nguyệt
Thu chẳng tàn mùa, Đông hát khúc đoàn viên.
17/11/2020
Trần Huyền Tâm
-------------
1. Lai đáo: đi đến, đến nơi
2. Xem truyện “Trang Chu mộng”, kể rằng Trang Chu mơ thấy mình là bướm, tỉnh dậy cứ băn khoăn hoài không rõ bướm đã hoá ra Chu hay Chu hóa thành bướm.
3. Lời thệ: lời thề, lời giao ước, thệ ước.
4. Lữ thứ: chỗ nghỉ tạm cho khách đường xa, chỉ nơi đất khách quê người.
5. Xem bài thơ “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch
6. Tri tâm: Biết rõ, hiểu rõ lòng nhau
7. Hạo nguyệt bôi (皓月杯), tức chén rượu đựng trăng. Hạo: sáng, Nguyệt: trăng, Bôi: chén.