• dau-title
  • Trang văn
  • cuoi-title

Nhà - nơi có ba, mẹ và người thân

Thứ sáu - 28/11/2025 09:25


(Ảnh: Thanh Bình)




NHÀ - NƠI CÓ BA, MẸ & NGƯỜI THÂN

(Thanh Bình)

 

​Sau lập đông, tháng Mười âm lịch, năm nào cũng vậy, nó NHỚ NHÀ, NHỚ BA MẸ thật nhiều.

 

Nó sinh ra ở thị xã, đúng năm giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc. Nghe Ba Mẹ kể, lúc đó nhà nó ở ngay chân cầu Bo, lúc nghe bom thả sập cầu, mẹ nó từ Bưu điện tỉnh chạy về, thấy nó vẫn trắng, tròn, ngủ say trên võng. Lớn chút nữa nó nhớ có ngôi nhà ngói ở khu sân nhà 4 tầng cũ, thuộc phường Lê Hồng Phong (cũ). Bây giờ, sau mấy chục năm, khu đó đã bị san phẳng, mọc lên mấy khu chung cư hiện đại, nhưng trong ký ức, nó vẫn nhớ ngôi nhà ngói ba gian, trước cửa là khu vườn lớn Mẹ nó trồng đủ các loại rau, củ. Bí ngô bám đất lan ra tận gần mép đường, những luống rau xà lách, rau cải ngồng, cải bắp… và cả những giàn mướp, giàn bí đao, su su quả lúc lỉu… Bọc lấy khu vườn là những hàng Vạn Niên Thanh thân mảnh nhưng thẳng đứng, kiên cường. Hồi 1972 và chiến thắng 30.4.1975 nhà nó vẫn ở đấy. Mãi sau nó mới biết đó là nhà kho của Bưu điện tỉnh cho nhà nó ở tạm. Rồi Ba Mẹ nó được phân đất ở Đề Thám Thành phố Thái Bình. Nó nhớ láng máng, các nhà đều phải góp lao động lấp trũng. Chủ lực là chị gái, anh trai nó. Nó cũng tham gia đẩy xe được ít lần. Rồi ngôi nhà mới mọc lên theo cách nào đó, nó không biết. Nhưng, đó là ngôi nhà nó ghi nhớ được nhiều kỉ niệm nhất:

 

Đó là ngôi nhà nó học năm cuối tiểu học, có kỉ niệm lần thầy Suyền giáo viên chủ nhiệm lớp 4, chở nó về thay quần áo hôm lớp có giờ thao giảng. Nó vẫn nhớ cái cũi tre, có hai đứa em nó lấm lem trần truồng khi ghé mắt qua cửa sổ…nó nhớ đã dối thầy không có chìa khóa vào nhà vì đó là lần đầu nó chạm vào sự xấu hổ, nhận ra nhà mình nhếch nhác nghèo khó, dẫu có vào nhà cũng không thể tìm được cái quần lành lặn hơn.

 

Là ngôi nhà nó học những năm cấp 2, cấp 3 với thật nhiều niềm vui và thành tích học tập, trôi trên vinh quang và phần thưởng đến mức chả bao giờ có ấn tượng về đói nghèo hay rách rưới… cho đến khi tham gia biểu diễn 8.3.1982 năm lớp 10 (lớp 12 bây giờ) trước khi tốt nghiệp, chị nó chạy lên chị Thủy mượn cho cái quần bò lành lặn và cái áo sơ mi trắng cổ lá sen điệu đà, để nó lên sân khấu, nó mới nhận ra nó rất nghèo so với các bạn. Năm đó, nó hát MƯA THÁNG 3. Bài hát gây ấn tượng, đến nỗi, sau này, kỉ niệm 40 năm ra trường vẫn có nhiều bạn học đề nghị nó hát lại bài hát đó.

 

Là ngôi nhà gắn với nghề nón, nghề chính thức đầu tiên nó theo từ năm học lớp 4 đến tận sau này, lấy chồng rồi, lúc nghèo khó hay rỗi rãi, vẫn nhận nón về khâu. Từ thợ khâu nón thuê, khâu ngày 1 cái, 2 cái rồi 3, 4 nón, thâu đêm say sưa khâu nón cưới cho bao thanh nữ, nó trở thành chủ, tự mua nguyên liệu về mở xưởng làm nón, cùng chị em trong nhà. Cấp 3 đã biết tìm mối bán cất, bán lẻ… biết ghi sổ chắt chiu đồng ra, đồng vào, đồng thua đồng được, để có thêm tiền phụ giúp Mẹ.

 

Là ngôi nhà, nơi nó cảm nhận được hạnh phúc của một ngôi sao thân thiện. Quanh nó, gia đình, anh chị em quây quần. Quanh nó, bạn bè nam thanh nữ tú ríu rít, dập dìu. Ngay khi viết lại những dòng này, nó vẫn như đang thấy lại từng gương mặt bạn bè… Chị Thanh, em Mai dặt dìu hẹn nhau mỗi sớm cùng đi, mỗi chiều cùng về, mỗi tối cùng ôn bài chân cột đèn cao thế trên cầu Bo mới. Bạn Thủy, bạn Trung, bạn Đạt… lũ bạn thích “be be” “be be” gọi nhau tụ tập như bầy dê non. Bạn Hằng, bạn Nghĩa, bạn Tùng… những người bạn dịu dàng, chỉ thích ngồi im nhìn nó khâu nón, ngắm nó nói chuyện… Cái cổng xích sắt hôm nào có đứa nghịch ngợm giờ trưa cứ xóc lên loách choách đánh thức nó rồi chạy ù đi. Ô cửa sổ song sắt khép hờ, có anh cu vờ gửi cuốn vở, hé cánh ngó vào ngắm nó giấc trưa rồi lại rụt rè chạy mất. Gian giữa, những chiếc ghế bang dài làm bàn, nó cùng lũ bạn ngồi phệt xuống đất, nghe Thầy Hoan, thầy Khánh, thầy Trung Anh giảng bài Toán – Hóa – Lý. Nó con nhà văn, đội tuyển văn nhưng có tận 2 năm ôn thi khối A cùng lũ bạn nam nhiều hơn nữ.

 

Ngôi nhà ấy, cô con gái 14-15 ấm ức cha cấm đoán, kiểm soát bạn, đã biết bực bình, uống rượu rõ say, ngủ quên trời đất (mà vẻ ngoài vẫn tỉnh bơ như chưa từng có gì khó chịu). Ngôi nhà ấy, ngôi nhà có chiếc sân rộng ngày tết dập dìu gói giò, gói bánh. Ba thường bảo: Nghèo đói cả năm không ai biết, nhưng Tết phải no đủ.

 

Ngôi nhà đó những ngày thơ bé, mỗi trận bão giông, trong nhà như ngoài sân, ướt đẫm, mái nhà chỉ đủ cho người ta cảm giác được giấu mình trong đó. Năm nhất đại học, nó đưa bạn về nhà gặp đúng hôm mưa bão, hai đứa sinh viên đại học cuộn trong áo mưa, nép góc nhà, trốn mưa, trốn sấm sét. Nó nhớ bạn nó ngậm ngùi: “Không về quê, chẳng bao giờ tớ biết nhà cậu nghèo đến thế!”… Ngôi nhà đó… có kỉ niệm về người yêu đầu tiên, người chồng đầu tiên, nhiều ẩn ức và cũng nhiều hạnh phúc. Những đứa trẻ của nó đều có kí ức với ngôi nhà đó.

 

Nó nhớ nhà của Ba Mẹ còn hơn cả nỗi nhớ dành cho những ngôi nhà của mình. Vì cuối cùng, tình yêu đượm đà sâu sắc nhất của nó chính là ở nơi đây, nơi nó gắn bó hầu hết tuổi thơ của mình, với Ba Mẹ và các anh chị em. Sau này nó lấy chồng, mua nhà, một lần, hai lần, ba lần rồi 4, 5 lần, nhưng không có ngôi nhà nào có đủ hạnh phúc để nó ở lại.

 

Nó nhớ nhà của Ba Mẹ. Đó là ngôi nhà ngói 3 gian, kiểu truyền thống, rất rộng, quay lưng ra đường. Lưng nhà cùng với tường quây, bao trọn mấy chục mét dài, vòng ra tận cuối ngõ, chỗ chạc ba có cây si già rễ chùm, nổi gân dài cả mét. Đi vào lối cổng, rẽ trái, qua sân gạch dài, dài đúng bằng chiều dài miếng đất. Gian chính nằm giữa, cửa gỗ 2 cánh lớn, rất rộng. Hai gian phụ, cân đối hai bên, mỗi bên cũng có cửa hai cánh nhưng nhỏ hơn một chút. Từ cửa chính nhìn vào, gian giữa, sát vách, một tủ búp phê 3 ngăn, mặt kính. Hai gian cạnh, mỗi bên một cái giường đôi – giường rẻ quạt. Khi nó học lớp 4, lớp 5 và lớn hơn xíu nữa, lần lượt các anh chị lớn đi học, đi làm xa, nhưng mỗi khi trở về tất cả vẫn ủ kín ấm áp trên hai cái giường rẻ quạt ấy. Khi nhà có thêm Bà Nội, ba kê thêm cái giường đơn, đông hơn nữa khi đủ người, Ba trải chiếu dưới sàn gạch.

 

Nó nhớ, một thời gian dài, chiếc giường đôi ở gian đầu tiên dành cho hai chị lớn và anh  trai, em trai giáp nó. Chiếc giường đôi ở gian thứ ba, nó nằm với ba mẹ và hai em út, trời nóng, hai anh em trai ôm nhau ở chiếc giường đơn kê liền kề (hoặc nằm sàn). Buổi tối, thường 9h hơn, tất cả lên giường, dép từng đôi, từng đôi ngay ngắn xếp dưới thanh dọc của giường, quay mũi ra ngoài, một hàng thẳng tắp, theo thứ tự người nằm. Ba thường vào giường sau cùng. Cuộc đối thoại cuối cùng của Ba Mẹ, mỗi tối, chưa bao giờ nó quên:

 

- Đủ chưa? – Ba nó hỏi, mắt liếc nhìn hai hàng dép

- Đủ rồi! – Mẹ nó trả lời nhẹ nhàng, tiện tay sắp lại hai hàng dép cho gọn hơn.

Mẹ nó chui vào tận mép trong cùng, ôm nó. Ba nó, sau khi khóa cổng cẩn thận, đặt mấy cái ghế ngáng chỗ cửa ra vào chống trộm, mới vào giường, bọc mép ngoài, cạnh em trai út. Có lần, anh trai nó xếp dép thẳng hàng xong lủi đi chơi, lúc về, trèo qua lối bể nước, rón rén qua cửa, vừa kịp đến trước giường, Ba cất tiếng:

- Đi đâu giờ mới về? Ra sân... quỳ.

Nó thấy Mẹ siết tay ôm chặt nó, nín thở không nói. Ba nó nằm một lúc, khẽ khàng dậy, ra sân… một lúc thì Ba vào, anh nó cũng vào.

 

Lúc nhỏ, nó chả nghĩ nhiều, nhưng khi lớn lên, có gia đình… đôi lúc chị em nó cứ rúc rích: Chả hiểu… ông bà đẻ kiểu gì, khi nào, mà tài thế, cứ nếp - tẻ, nếp - tẻ lại nếp – tẻ. Mẹ kể cứ nhẹ như lông hồng: mẹ 15 lần mang thai nhưng chỉ sinh được 10 người con, và nuôi được 9 thôi.

 

Nó vào năm cuối đại học, Ba nghỉ hưu. Sau nghỉ hưu, Ba Mẹ xây lại nhà mới. Có lần chị gái nó thì thào:

- Đố biết Ba giấu vàng ở đâu? Cả nhà này, chỉ có chị biết, Bu cũng không biết (Bu là Mẹ đó, ngày bé ở quê toàn gọi Ba – Bu, chết cười).

- Ở đâu? Ba có vàng á?

- Ừ! Không có vàng thì lấy gì mà làm nhà! Đây này…

Chị nó hãnh diện chìa ra một chiếc lọ thủy tinh, tự hào lắm vì biết được bí mật của Ba.

 

Hóa ra, Ba nó có một cái lọ nhỏ (ngày ấy là lọ Penicilin), cứ tiết kiệm được chỉ  nào, Ba lại cho vào đó, rồi bọc kín lọ bằng mấy lớp nilon, cho vào một hộp sắt bé tí, chôn gốc cây Húng quế. Tận lúc đó nó mới hiểu vì sao Ba thường tự tay chăm cây. Nếu có lần nào chị em cần tiền, hái trụi lá húng quế đi bán là về Ba lo lắng,mắng mỏ ghê lăm. Ba dặm dặm vun trồng lại rồi ra sắc lệnh: Nghiêm cấm không ai được đụng cây Húng quế của Ba. 

 

Nó đi học rồi lấy chồng nên căn bản không tham gia được nhiều vào việc xây nhà mới. Cùng với ít chỉ vàng tiết kiệm cả đời công tác, Ba Mẹ cắt đất hai bên nhà bán lại cho hàng xóm mới, bù tiền xây nhà, và lấy tiền nuôi nó cùng các anh chị em ăn học. Ba vẫn thường bảo: Mỗi tấm bằng đại học là một cái nhà mái bằng. Lúc bé nó không hiểu, sau này mới thấu, đó không chỉ là tiền của vật chất, đó là tâm huyết cả đời của Ba Mẹ nghèo dành cho các con.

 

Ngôi nhà mới hai tầng cất lên khang trang. Tầng 2 dành nguyên gian chính Ba dựng một tòa trang trọng cho Mẹ setup một điện thờ, thờ Phật, thờ Thánh, thờ Mẫu và gia tiên. Tầng 1, thiết kế hai gian, gian ngoài phòng khách. Gian trong có 3 ngăn, ngăn giữa có bộ bàn ghế đơn sơ, hai bên có hai giường 1,2m và 2m. Góc giáp sân, bên cửa sổ, một chiếc bàn cao ngang mép cửa sổ, một ghế tựa, một điện thoại bàn, một phích rạng đông, 1 điếu cày, 1 bộ trà…. Mẹ bảo: - Đó là góc của Ba.

 

Mọi thứ đều ngăn nắp và sẵn sàng ở đó trước 6h30 sáng, giống như chiếc bàn làm việc của Ba ở cơ quan, chỉ khác là không có giấy tờ hay công việc cần Ba phải giải quyết. Ba vẫn dậy sớm. Không phải đạp xe còm cõi đi làm, Ba tưới cây, tỉa cành, nhặt sâu, chăm chút hoa… Loài hoa Ba thích, ngoài hoa Quỳnh, còn cây Xương Rồng hoa đỏ và hoa Đá. Ba chăm chỉ lại có tay nuôi trồng, nên chỉ một thời gian ngắn, từ tầng 2, đến tầng 1, ngoài sân và các ban công, chỉ cần để được một bát hoa, là sẽ có hoa… Ngôi nhà không trần trụi với ghế và giường nữa, thêm hoa, thêm cây, thêm Ba ra vào ấm áp và mạnh mẽ hơn.

 

Nó thích đi về ngôi nhà ấm. Bằng cách nào đó, Ba Mẹ luôn cho nó và các anh chị cảm giác, đó là nhà của mình. Ba mất, giao toàn quyền cho Mẹ. Nhà 9 anh chị em, nhiều hoàn cảnh khó khăn, nhưng chưa bao giờ có ai bàn chuyện bán nhà với Mẹ. Cứ như thế, ngôi nhà vẫn ấm, lạnh từng cơn nhưng trụ vững. Trước khi mất, Mẹ gọi nó hỏi ý kiến, nó bảo: “Tùy Mẹ. Để là nhà chung, bán đi là tiền riêng, anh em đầu ai chấy nấy. Anh Cả ở xa chúng con không theo được hương khói, em thứ ở Hà Nội chưa hưu để về quán xuyến, em Út lo việc họ ngoại cũng đã vất rồi (vì Ba Mẹ đều là con trưởng)”.

Dăm bảy lần Mẹ đọc di chúc. Có lần còn gọi cả hai em con Cậu đến làm chứng, Mẹ muốn giao nhà cho con trai thứ quản lý chăm lo cho gia đình, nhưng, không hiểu vì sao, cuối cùng, mẹ không để lại di chúc. Nhà Ba Mẹ, vì thế, trở thành Nhà Chung, chúng nó tụ về khi Lễ Tết hay dịp Cúng Giỗ.

 

Nó nhớ Ba từ tuổi trung niên đến khi Ba mất. Nhớ dáng Ba với chiếc xe đạp Favơrit, Ba còm cõi đi về, lúc thì Thị xã – Tiền Hải, khi lại Thị Xã – Vũ Thư, có dạo làm cách nhà khoảng 300m nhưng chỉ được ít ngày, lại bị điều đi xa, nghe nói tại Ba cương trực quá. Ba cứ như thế từ khi nó còn học tiểu học, trung học cơ sở rồi đi đại học, khi nó ra trường, đi dạy, thì Ba nghỉ hưu. Mỗi sáng Ba thường dạy từ 4-5 h sáng, trời đông cũng như hè, sáng lót bụng chén trà đặc se sắt ruột rồi đi làm, chiều trở về, dựa xe, tắm giặt, cơm nước xong lại một mình một ấm trà, ngồi ôm chiếc bàn nhỏ ngoài sân, bên cạnh những bồn hoa nhỏ.

 

Các bồn hoa ngay dưới chân tường, Ba chia ô, mỗi ô trồng một cây Húng Quế. Sau mảnh sân nhỏ, lát gạch, có một hàng tường hoa thấp ngang bụng, rất sạch sẽ. Ngay trước cửa chính ngôi nhà ngói ba gian, trông ra, chỗ chân tường hoa, kê một bàn gỗ nhỏ đơn sơ, với đôi ghế nhỏ. Ngay phía ngoài tường hoa, ngay chân tường, Ba chia ô, trồng hoa, nhiều nhất là hoa quỳnh, hoa hồng gai, cứ bám theo bờ tường hoa đến tận sân giếng cuối cùng.

 

Ba ít cười, cảm nhận về Ba luôn là sự nghiêm trang, nghiêm nghị với chính mình, với vợ và các con. Ngày bé, nó là đứa được Ba chiều nhất: được ngồi cạnh Ba, ăn cùng Ba mỗi khi nhà có khách, dĩ nhiên được ăn ngon rồi, vì mâm khách bao giờ cũng có thêm đĩa gà, đĩa cá, hay đĩa lòng lợn… nghĩ lại cũng giống cảnh nhà trong văn của Nam Cao lắm. Được chiều thì thích lúc đó thôi, còn cảm giác chung của nó với các anh chị em trong nhà về Ba là sợ, nên trước Ba, chúng nó ít nô đùa, ít trò chuyện, chỉ nem nép, im lặng, tránh được là tránh, vì sợ nhất những khi Ba mắng. Ba ít mắng nó, nhưng Ba hay lấy câu chuyện người này, người khác dạy nó. Ba dạy có lý, có lẽ, có ngọn, có nguồn, nên bao giờ cũng dài dòng cội rễ, không phải ai cũng chịu khó nghe, nhưng nó thì thường nghe với vẻ vô cùng ngoan ngoãn, hiền lành, nhiều khi… nghe như nghe chuyện, thế thôi. Nó sợ Ba, nhưng các anh chị em nó còn sợ Ba nhiều hơn. Sợ Ba nói dài, nói dai. Sợ Ba đánh đòn, đánh rất đau bằng roi mây. Nó vẫn nhớ lần anh cả dẫn nó đi xem chiến thắng 1975 ngoài sân vận động, Ba Mẹ nghe tin khán đài A, B của sân bị sập, người như nêm cối, tìm mãi không được anh em nó, Ba, Mẹ, Chị cả đi tìm khắp nơi, sợ đến cả không dám khóc. Gần sáng, anh em nó mới thoát ra được, về nhà, tay cầm bóng bay, vẫn tung tăng nói cười, anh nó bị Ba cho cái tát trời giáng. Nó nhớ cái roi mây, Ba thường quật mông hai anh trai “quắn đít” vì tội leo cây vặt bàng trưa nắng và đánh nhau với hội trẻ con ở xóm. Nó nhớ những buổi chiều, mẹ chỉ cần nói nhẹ: Ba sắp về rồi đấy, là cả lũ 5-6 đứa lau nhau, đứa cầm chổi rễ tre quét ngõ sau lưng nhà, đứa cầm chổi lúa dày quét sân, đứa nhận chổi rơm quét nhà… Nó thường được mẹ dúi cho cái giẻ ẩm, lau bàn, lau ghế, lau giường, lau tủ, lau cửa sổ… Còn mẹ nhẩn nha ngồi sân giếng nhặt rổ rau to, xong sẽ giao chị nó mang ra máy nước đầu ngõ xếp hàng, xin nước, rửa rau.

 

Nó nhớ Mẹ - Người Mẹ xinh đẹp, dịu dàng, dù bao nhiêu lam lũ, đau khổ vẫn kiên cường, nhẹ nhàng vượt qua cùng với yêu thương và sự bao dung. Chồng công tác xa nhà, một mình mẹ chăm sóc nuôi dạy đàn con 9 đứa, lau nhau, đứa trước cách đứa sau chưa đầy 2 năm, mũi dãi, dại khờ… và đói khát. Lương ba cọc ba đồng; gạo 5 cân đứa bé, 10 cân đứa lớn, 13 cân cho người lao động; thịt bạc nhạc mỗi tháng dăm lạng; vải vóc năm vài ba mét, giật gấu vá vai, nghĩa đen hay nghĩa bóng đều đủ cả. Nó nhớ bữa cơm 9-10 miệng ăn, thêm Ba là 11, khi có Bà, ngày đủ người, trọn vẹn 12. Hai chiếu cói nối nhau trải giữa sân (chếch về phía bếp và giếng nước); hai mâm nhôm tròn, mỗi mâm một đĩa rau luộc to đùng, một bát nước rau (sang thì có thêm tí chanh hay quả sấu), một bát nước chấm mắm mặn với tỏi ớt, bữa nào có Ba, được bổ sung đĩa đậu phụ nướng sẵn, xếp mỏng, đủ mỗi người một miếng. Lâu lâu, cũng có tóp mỡ chưng cà chua, hay canh dưa nấu cà chua, một nồi canh 3 tô loãng với 1-2 quả cà lấy màu là chính. Mẹ nó và chị cả ngồi bên nồi. Xới xong vòng 1, mẹ quay qua xới vòng 2. Mẹ thường khéo léo chia đủ để chị cả không bị mất phần. Mẹ xới xong bát cơm cuối cùng, thường nhặt nhạnh nốt mấy vụn cháy  rồi đem nồi ra sân giếng. Cái nồi còn nóng, xèo xèo mấy tiếng rồi im bặt. Mỗi người ăn xong, đều cầm bát đũa của mình bỏ ra chậu ở sân giếng. Rất nhiều lần mẹ bảo: “Lúc chia cơm ở cơ quan, mẹ đã ăn miếng cháy rồi”. Nó và các anh chị em cứ thế vô tư tin là thật. Suốt mấy chục năm, chưa bao giờ nó dừng lại để biết mẹ đã đói như thế nào. Sau này, khi đã thừa ăn, mỗi lần sau bữa cỗ, khi chúng nó gom đồ bỏ đi, mẹ hay lén nhặt lại, giấu vào góc tủ, đợi các con đi, mẹ lại ăn dần. Nhiều thứ không để được, tiếc của, khuya mẹ lại mở ra ăn cố. Nó cũng giống như nhiều anh chị em khác lúc đầu đều rất bực mình, có đứa nặng nhẹ với mẹ, có đứa phũ phàng bê đổ rác trước mặt mẹ, vừa đổ vừa đay:

- Đổ, đổ luôn, có tiếc lần sau mới không làm thừa. Không đổ đi là tối lại lọ mọ ăn đêm, hại người.

 

Một lần, sau bữa giỗ, khi mọi người đã đi cả, nó còn ngồi lại, trong lúc bóp chân tay cho mẹ, mẹ nhìn xa xăm, nhẹ nhàng:

- Các cậu cứ đổ thức ăn đi, phải tội chết, kiếp sau lại đói nghèo như mẹ.

 

Rồi mẹ cười rất hiền:

- Nãy tớ giấu được một ít, mình mang đi Hà Nội cho các cháu, đừng vứt… không mang hết cứ để tủ lạnh, tớ cho bà V, bà Q…

Tận lúc đó, nó mới hiểu cái đói đã ám ảnh Mẹ như thế nào.

 

Nó nhớ Mẹ nợ, chồng nợ. Nợ vặt, do mua chịu gạo, rau, đậu, trứng … gối nhau không dứt. Ăn bữa sau, trả bữa trước, cuối tháng, có lương Mẹ, lương Ba trả xong, lại nợ. Người bán hàng thích bán chịu cho Mẹ vì Mẹ thường mua nhiều. Nhưng vì mua nhiều, nợ nhiều thì họ cũng cụt vốn, nên vài ngày lại bám đuổi đòi nợ. Cửa nhà nó, mở ra là có khách. Khách đến hầu hết là chủ nợ. Mà kì lạ, cứ Ba về là vắng lặng, đến chủ nợ cũng không ghé. Thế mà cũng có lần, sơ suất, chủ nợ vào nhà muộn lúc cuối chiều, đúng lúc Ba vừa về, Mẹ đứng tim, cả nhà xanh mặt. Bác bán rau ở đầu ngõ réo: “Bà M ơi, không trả nợ à?” vào đến sân thấy Ba khựng lại:

- Gì đấy?

- À, tôi hỏi bác gái có lấy thêm rau không? Còn hai mớ.

Mẹ nó xua xua tay:

- Không, không mua gì đâu…về đi, mai nhé…

 

Đến tối, lên giường, đợi chúng nó nhắm mắt, nằm im, thở đều, Ba nó nói, rất khẽ:

- Nợ nhiều không?

- Vài đồng tiền rau thôi, Ba không cần để ý!

- Có gì phải nói, không được giấu!

- Không giấu thì sao? Lương Ba cũng đưa cả rồi. Cứ kệ tôi đắp đổi.

Rồi im lặng. Nó nghe được bấy nhiêu trong lúc đi vào giấc ngủ rồi thiếp đi. Những câu chuyện kiểu như thế, không chỉ một lần. Nó rất ngưỡng mộ cách Ba Mẹ ngoài lạnh, trong nóng, trước mặt con cái cứ như chả có chuyện gì nói với nhau, cứ như không quan tâm, nhưng khi chỉ có hai người lại cực kì ấm áp.

 

Nó nhớ ngày Mẹ bệnh. Ngày ấy nó học cấp 2, mẹ chừng 46-47 tuổi. Buổi tối, Mẹ thường buông màn sớm từ 6-7h, chiếc giường biến thành sân khấu nhỏ. Mẹ múa dao, múa kiếm, múa võ. Đôi khi Mẹ vừa múa, vừa quát. Đôi khi lại vừa múa, vừa hát. Giống như Mẹ đang sống ở thế giới khác, với ai khác. Hầu như cả đêm Mẹ không ngủ. Tầm 5h sáng, mẹ đã ăn mặc chỉnh tề, đi bộ lên sông Trà Lý, lội xuống mép sông, múc nước sông uống, rồi lại quay về nhà. Ba vẫn canh giờ đưa Mẹ đi làm rồi mới đi. Những ngày bệnh nặng, Ba nghỉ việc ở nhà chăm mẹ. Ba hầm chim bồ câu với củ đinh lăng, nấu cháo cá,… cho mẹ. Hóa ra Ba làm rất đảm. Nhưng Mẹ không ăn. Mẹ không ăn là Ba đổ nước gạo, tuyệt đối không cho con cái ăn. Nó và các anh chị em nhìn Ba đổ đi, tiếc và thèm lắm. Ba bảo: Đổ đi, tiếc mẹ mới ăn. Nhưng Mẹ chẳng quan tâm. Giờ nghĩ lại, có lẽ nhất thời Ba không tin là Mẹ ốm. Nhưng các bác ở Sở Bưu Điện khi chứng kiến Mẹ múa, hát, nói nhảm thì sợ. Bác Giám đốc Sở gọi cho Ba, thống nhất đưa mẹ đi chữa bệnh ở bệnh viện tâm thần  Trâu Quỳ, cách nhà mấy chục cây số. Cơ quan mẹ bố trí ô tô cùng Ba đưa Mẹ nhập viện. Ba và mọi người quay xe về, một loáng, đã thấy Mẹ ở nhà. Mẹ bảo có người xua đuổi Mẹ, giục Mẹ về nhà nấu cơm cho các con. Mẹ vừa đi, vừa chạy. Sau phải chấp nhận điều trị ngoại trú. Cơ quan mỗi tuần cho xe cùng Ba đưa Mẹ đến bệnh viện, nhận thuốc xong về nhà. Ba và chị cả quản lý việc uống thuốc của Mẹ. Có một lần, bây giờ cũng không biết đầu đuôi thế nào, mà nó được Ba giao chở Mẹ đi bệnh viện. Nó đèo mẹ trên xe đạp cũ. Đi đến đoạn Rạp Thống Nhất, mẹ túm đuôi tóc nó kéo ghì bắt dừng xe, mẹ xuống xe, đi một mạch lên sông Trà Lý, đoạn chân cầu Bo cũ. Nó ngã chổng quèo. Nước mắt lã chã vì sợ hãi, chỉ sợ mẹ đi chết. Nó ngồi dậy, cuống đến mức không đạp nổi xe, cứ dắt xe chạy ngược về nhà báo tin, may Ba nó cũng chỉ vừa ra khỏi cổng, nên cả nhà lại túa lên cầu tìm Mẹ. Rồi cơ quan lại cho xe ô tô đưa Mẹ đi bệnh viện.

 

Nó nhớ, một buổi chiều, tầm 3h chiều, chú Lê Bính, nhà thơ – cũng là người giỏi kinh dịch và tử vi đến chơi nhà. Ngày ấy, nó là học sinh của nhóm Búp trên cành – tập hợp các bạn nhỏ có năng khiếu văn chương dạy sáng tác, Chú là giáo viên chủ nhiệm của lớp ấy. Chú quý nó, có lần dẫn cả nhà văn Phong Thu, nhà văn Tô Hoài và nhà thơ Phạm Hổ cùng nó về nhà. Nó nhớ bác Phong Thu vừa rẽ vào ngõ vừa khe khẽ:Xóm nhỏ, ngõ nhỏ… nhà tôi ở đó. Ba tiếp Chú và các nhà văn, nhà thơ. Ba tự hào lắm. Cũng vì thế mà Ba biết chú Bính giỏi kinh dịch, tử vi.

 

Chiều hôm ấy Ba và Chú ngồi với nhau rất lâu… đến tận tối mịt, chú vẫn châm đèn ra sân ngắm nghía… Sau đó, Ba bán rẻo đất gần gốc cây si già, lấy tiền xây dãy nhà ngang 2-3 phòng nhỏ xíu (như phòng trọ tạm bây giờ) nối liền với gian bếp. Ba bảo: Xây phòng riêng cho Bà Nội, bà già rồi ở chung các cháu không tiện sinh hoạt. Nhưng bên cạnh phòng dành cho Bà Nội, chính giữa có một phòng, Ba làm một ban thờ treo, có bát hương. Lần đầu tiên trong nhà nó có bát hương. Lần đầu tiên, kể từ năm ấy, tháng ấy, ngày ấy, nhà nó coi chuyện hương khói là một việc quan trọng. Và Mẹ được làm công việc ấy. Mẹ nhờ bà H có điện thờ gần nhà bốc bát hương, tôn nhang thờ. Lúc đầu một bát nhang, sau thêm cái tủ thờ nhỏ và có thêm vài bát nhang nữa. Nó chưa bao giờ biết đó là bát nhang gì, thờ ai. Không hiểu tại Mẹ kiên trì điều trị ngoại trú, hay vì mẹ có gian riêng thờ cúng tại nhà, nên, dần mẹ khỏi bệnh. Mẹ khỏi nhanh đến mức trừ vài người lãnh đạo Sở Bưu điện, mấy con lớn trong nhà, 1-2 hàng xóm lân cận thì không ai biết Mẹ từng bị bệnh. Rồi Mẹ an hơn, béo lên, đẹp ra, rồi… mẹ có thêm bạn bè, con nhang đệ tử ghé nhà cùng hương lễ. Ngày ấy, hương lễ lập đàn là Mê Tín Dị Đoan, bị cấm, bị phạt nếu có tố giác, nên Mẹ kín đáo lắm. Tâm An là được. Ba thấy Mẹ ở nhà, vui vẻ thì cũng không cố chấp. Dần dần con cái trưởng thành, áp lực cũng bớt đi, bán thêm 1-2 lô đất nữa thì nợ nần cũng hết. Mẹ khoogn chỉ khỏi bệnh mà vui vẻ, hạnh phúc.

 

Khi xây lại nhà, Ba dành riêng tầng 2 để Mẹ chính thức lập điện thờ khang trang. Cùng với sự cởi mở về tôn giáo, tín ngưỡng, đặc biệt với sự dịu dàng thấu đáo và giao tiếp văn hóa ngọt ngào, hát hay, múa đẹp, điện thờ của Mẹ ngày càng có thêm nhiều con nhang đệ tử. Mẹ làm nhiều việc được thiên hạ ghi nhận, truyền miệng, đi theo… nhưng với nó, nó chưa bao giờ tin có một thế giới tâm linh nào khác thuộc về Phật, Thánh…

 

Nó yêu văn hóa dân gian, thích hát chầu văn và múa cũng dẻo. Nó tham gia các lễ hội văn hóa dân gian, đi chùa, đến đền, nhưng chưa bao giờ nó tin có phép màu nào thực sự được các đấng thần linh, được Phật hay Thánh đem lại. Xét từ góc độ tâm linh, nó tin có gia tiên, có mối giao cảm đặc biệt với ông bà, cha mẹ và cô bé thoải họ Đào nơi chín suối, nhưng nó là kiểu chỉ tin cái gì mình trải nghiệm. Nó đã có một loạt các bài viết về sự linh diệu của những giấc mơ, đều là chuyện thật, nó tin, nhưng những thứ cao siêu khác, nó không biết, không trải nghiệm, không tin. Nhưng nó tin Mẹ nó thiện lành, bao dung. Nó tin Mẹ nó cảm hóa được mọi người chính bởi sự thấu hiểu, yêu thương, bao dung của Mẹ. Nó vẫn đang gắng học Mẹ điều đó, mỗi ngày. Những ngày trước khi đi xa, Mẹ hay thử nó:

- Cô mà kế nghiệp tôi thì lắm lộc lắm đấy.

 

Nó biết về mặt trần, mẹ nó tin yêu, muốn nó kế nghiệp. Nhưng nó chưa bao giờ dám nhận. Nó vẫn giúp Mẹ bình thơ, tán thẻ, nhưng nó không thuộc bài khấn bài lễ hay điệu múa nào. Nó sẽ nối nghiệp Mẹ theo một cách khác, trao đi giá trị nhân văn trọn vẹn từ Mẹ, như một sự báo hiếu.

Nó thấy may mắn vì cuộc sống vận hành theo một cách nào đó thật kì diệu, nó được gần Ba Mẹ và người thân lúc khó khăn nhất.

 

Nó có hai đời chồng. Với người chồng đầu tiên, hi sinh cho nhau đến thế, bó bện nhau đến thế, bảo vệ nhau đến thế, lo cho nhau đến thế… không ở được với nhau trọn vẹn là duyên – nghiệp, nó có đau buồn, nuối tiếc nhưng chưa bao giờ trách, càng không bao giờ ân hận. Nhờ có anh, nó lần đầu biết cách làm dâu, làm con, lần đầu hiểu được cảm giác được yêu thương từ bố chồng tuyệt vời. Bố là người nông dân chính hiệu, chất phác, chân thành. Nó không đủ thông tin để viết truyện về Bố, nhưng nó vẫn ghi nhớ và mang theo, có lẽ, đến tận cuối đời những tình cảm Bố dành cho nó – đứa con dâu thành thị, chỉ biết ăn học, ngây thơ, vụng dại. Nó nhớ cách Bố dậy sớm, đón ý mẹ, nhẹ nhàng, gọn ghẽ mọi việc để vợ chồng nó được ngủ thêm mỗi cuối tuần vì thương con dâu bầu bí, thương con trai làm việc xa nhà. Nó nhớ cách Bố dậy từ 5h sáng, rang cơm, đong sẵn ra mấy bát, bầy trên mặt bàn, nhắc con dâu ăn sáng kịp đi làm lúc 6h. Nó nhớ cách Bố bỏ đám giỗ nhà con gái về nhà sớm, dọn đống gốc tre, không làm khó con dâu khi nghe Mẹ bảo con dâu về xếp đống củi tre ngoài vườn; cách Bố dành phần thái cây chuối làm rau nuôi lợn; dành phần gánh gánh lúa đầy, để con dâu cầm liềm chạy sau, khiến cả làng buồn cười. Nó nhớ Bố ngậm ngùi, kín đáo xé những trang vở cũ, bọc từng quả trứng gà, xếp vòng tròn ào cái nồi gang nhỏ, ken cho đủ chục, làm món quà cho con ra ở riêng… Nhớ dáng Bố ôm bọn trẻ lúc còn đỏ hỏn, đầy đặn yêu thương và quý hóa. Nó may mắn được chăm Bố Phạm Văn Sinh nằm viện vì tắc ruột, chăm Bố từ miếng ăn giấc ngủ, bưng bô chạy theo bố vào nhà vệ sinh nam là chuyện bình thường. Ở bệnh viện, người ta toàn nghĩ nó là con gái, cho đến khi hỏi, mới biết nó là con dâu.

 

Nó cũng biết ơn Bố Bùi Văn Hoạt về sự tinh tế, khéo léo của một chính trị viên. Lúc Bố nằm bệnh viện 108 Hà Nội, nó được gần nhiều hơn. Bố chức to, bệnh viện xịn, sức còn tốt nên căn bản nó cũng chẳng phải làm gì nhiều. Chỉ một bát phở nó ra Phở Thìn mang về, ăn ngon miệng mà gặp ai Bố cũng khoe, cũng khen. Nó nhớ Bố, ngày về qua nhà Cầu Giấy, bố nằm trên ghế dài tầng 2, lúc nó về, Bố nhổm dậy, câu chuyện Bố nói không phải là sức khỏe của Bố mà là về Mẹ: “Con không giận Mẹ đấy chứ? Mẹ nóng như lửa, có khi ăn nói hồ đồ, nhưng tốt tính, đừng giận mẹ, nhỉ?” Hình như ngày ấy Mẹ nghe ai đó buôn chuyện xằng bậy, xót cháu trai, giận con trai, giận lây, nhiếc nó: “Tôi tưởng chị Tiến sĩ như thế nào, chị như thế không được”. Trong lúc mang án bệnh Ung Thư, Bố vẫn chỉ lo hàn gắn yêu thương cho vợ, cho con và các cháu. Nó không được chăm Bố nhiều, nhưng, giấc ngủ sau cùng, bát cơm sau cùng, tấm bỉm đóng đêm cuối cùng trước khi mất, cũng từ yêu thương chăm sóc của nó. Bao năm giỗ Bố, nó ngoài lạnh, trong nóng, mỗi lần về, thắp nén nhang lên, ghé vào phòng khách, nó ngồi thừ, nhớ lại. Nó chưa bao giờ quên đêm cuối, rạng sáng, lúc cho Bố ăn, Bố cứ vét bát quèn quẹt đòi ăn thêm. Hôm đó, suýt nữa nó đã lấy thêm cho Bố, nếu như ngay lúc ấy, Bố không giục: “Đóng Bỉm cho Bố, mặc quần cho Bố”, trong khi Bố đóng Bỉm và mặc quần đủ rồi, thì có lẽ nó đã lấy thêm cho Bố bát cơm nữa. Đó là lúc nó nhận ra Bố lẫn, nó nhận ra Bố sắp đi xa… vì nó đã chăm Ba đẻ, nó biết. 6h sáng, nhường lại cho Mẹ và chồng nó đi ngủ, sáng đó, Bố trở nặng, rồi lịm dần đi khi Mẹ tắm rửa thay đồ sạch cho Bố.

 

Nó nhớ những tháng cuối cùng trước khi Ba đẻ mất, nó đã được ở bên Ba, cận kề, trọn vẹn. Ngày ấy, nó làm ở Bộ, may mắn được Chánh Văn phòng giới thiệu Phó Giám đốc bệnh viện Lao phổi Trung ương trực tiếp điều trị cho Ba. Nó cùng Anh Cả và em gái liền kề, thay phiên nhau chăm Ba. Anh Cả chăm cả ngày ở bệnh viện, em gái lo đi lại cơm cháo cho Ba và Anh Cả. Nó đi làm ban ngày, lo việc khám chữa, liên quan bác sĩ, thuốc thang, trông đêm và những ngày cuối tuần. Sau này, nhiều lần nó tự hỏi: Nó đã lấy đâu ra nhiều sức lực như thế, cho Ba, cho Anh và cho công việc. Nhưng, bệnh Ba đã ở chặng cuối. Ba mê man nhiều hơn. Mê man đến mức nói tục, chửi bậy, chửi luôn cả bác sĩ rồi. Những lúc nó ở viện, Ba tỉnh, Ba rất quyết tâm chữa bệnh.Dù xác định chỉ là duy trì, kéo dài sự sống nhưng Ba và nó đều rất quyết tâm. Đêm đó, sau rất nhiều đêm trông Ba ở viện, không ngủ, em gái nó trông thay, nó về nhà tầng 5 Bùi Ngọc Dương, có giấc ngủ say như chết. Gần sáng, trong giấc mơ, nó thấy nhà nó trống hoác, chỗ giường nó đang nằm, cũng là nơi trước hôm nhập viện Ba đã nằm, trống hoác, giường đã bị đưa đi đâu mất. Ngoài cửa kín người, hỏi thăm đám hiếu. Nó choàng tỉnh, chạy một mạch vào bệnh viện. Buổi sáng thứ Hai đầu tuần, sau khi thăm khám, Bác sĩ điều trị Phó Giám đốc bệnh viện, gọi nó vào phòng:

- Phổi ông trắng hết rồi, nên cho Ông về, vui cửa vui nhà với vợ con, cháu chắt em ạ.

 

Nó lặng đi ít phút. Nó bấm máy gọi cho Chánh Văn phòng:

- Em phải về quê anh ạ! Em phải đưa Ba em về.

 

Chánh Văn phòng bảo nó đưa máy cho bác sĩ điều trị cũng là bạn của Ông. Ông nghe xong rồi nói:

- Để anh sắp xếp!

- Em không muốn đưa Ba về bằng xe cấp cứu ạ!

- Anh hiểu rồi. Yên tâm nhé. Em cứ ở bệnh viện với Ông.

 

Chiều hôm đó, thay vì xe bệnh viện, Văn phòng Bộ cho một xe 7 chỗ, dọn sạch ghế, để giường cho Ba nằm, cử bác sĩ cùng các thiết bị cấp cứu đi theo. 5h chiều xe xuất phát từ bệnh viện, Ba vẫn tỉnh:

- Cho Ba qua chỗ đất nhà con mới mua được không?

- Vâng ạ!

 

Xe di chuyển từ đường Hoàng Hoa Thám về qua ngõ 155 Cầu Giấy, dừng lại 5-6 phút, nó chỉ cho Ba lối vào ngõ, tả cái ngõ ngoằn ngoèo như thế nào trước khi đến miếng đất, rồi đi về hướng đường Giải Phóng, về Thái Bình. Đi một đoạn Ba kêu mệt, mọi người cho Ba nằm cáng, hỗ trợ máy thở. Ngày đấy, hình như đang làm đường Pháp Vân hay sao ấy, bây giờ không nhớ, chỉ biết là xe đi đến đoạn gầm cầu cuối đường Giải phóng thì phải, thì lối nào cũng bị chặn, lái xe quay qua quay lại mãi toàn công trường, mãi mới tìm được lối ra. Trời tối mù mịt, đường không có lối đi. Mỗi lần nghĩ lại, nó cứ tự nghĩ, liệu có phải đó là cách Ba chào Hà Nội.

 

Đưa Ba về, nó cũng ở nhà luôn. Đó là những ngày cuối tháng 9, đầu tháng 10 âm lịch, cũng là dịp 20.11 và dịp họp Quốc hội. Nó chẳng phải quan chức vai vế gì, nhưng nó là kiểu chuyên viên cốt cán và mẫn cán nên báo cáo, tài liệu trong máy nó cả. Có Anh Cả, có Mẹ và nhiều người, nhưng khi còn lại một mình, nó hỏi Ba cho nó đi Hà Nội rồi quay về, Ba lắc đầu. Nó hỏi: Con ở nhà chăm Ba nhé! Ba gật. Thế là nó ở lại, kệ trên kia, kệ Hà Nội và công việc bừa bộn và… có phần rối loạn. Ba cứ nằm trên giường, đóng bỉm, vệ sinh tại chỗ, ăn cháo loãng, uống sữa và nước lọc nhỏ giọt. Ba vốn gầy, bây giờ chính xác chỉ còn da bọc xương. Mỗi lần thay bỉm, khi Anh Cả bấm mấy ngón tay vào chỗ mắt cá nhấc chân Ba lên, Ba lại nhăn mặt đau đớn. Có lần nó nhìn thấy một giọt nước mắt ba, ứa ra, từ từ lăn xuống. Nó đã không còn ỉ nại vào Anh Cả nữa. Sau nhiều ngày, Anh cũng thấm mệt, nên nó dành toàn bộ phần chăm Ba. Có điều, Ba cứ ăn vào là đi ngoài nên cuối đời, chỉ ăn cháo trắng nấu loãng. Có Sâm, cũng không dám dùng vì lạnh bụng là lại tháo chảy. Ba suy kiệt. Thời gian tỉnh táo ít dần. Nhưng khi tỉnh, dù chỉ là cặp mắt đục ngầu mở ra, vẫn ánh lên vẻ tinh anh, thông thái. Một buổi sớm, nó gặng hỏi:

- Ba có muốn dặn chúng con điều gì không?

 

Ba căng mắt nhìn nó, cố gắng ấn ấn cái đầu hói nhỏ bé xuống gối. Nhưng cái đầu nhẹ và sức đã kiệt, nên căn bản nó không nhận ra dấu hiệu gì. Cho đến khi, Ba chớp mắt 3 lượt ý bảo nó cúi sát xuống, nó nghe tiếng Ba “gừ…gừ…” không thành tiếng. Có cái gì đó lóe lên trong đầu, nó nhìn mắt Ba:

- Gối ạ?

 

Ba không gật, không lắc được nữa, nhưng nó cảm nhận được sự thanh thản trong ánh mắt. Ba ngủ lịm. Rồi Ba lại tỉnh. Trong một lần Ba tỉnh giấc, anh nó bảo:

- Hỏi xem Ba có ăn mía không? Lúc khỏe, thích ăn mía lắm. Anh chẻ mỏng rồi, ăn cho sạch rang

- Hóc làm sao được! 

Mình ngồi đây, rang ông còn khỏe lắm.

 

Đúng là răng Ba nó còn nguyên vẹn cả hai hàm, và rất khỏe. Nó nhớ Bà Nội, trước hai tuần Bà mất, nó về thăm nhà, cho Bà cái kẹo chanh, Bà còn bỏ miệng nhai sần sật. Nó hỏi:

- Ba ăn mía nhé. Anh chẻ mỏng rồi. Cho đỡ nhạt miệng.

 

Ba đưa mắt nhìn xuống, rồi nhìn theo tay nó đang cầm mẩu mía. Nó run run đưa vào miệng Ba. Thật bất ngờ, Ba cuốn miếng mía vào mồm, nhai ngấu nghiến, giống như chưa từng ốm, cứ thế, một lúc:

- Con lấy bã mía ra cho Ba nhé!

 

Ba nó không nói gì. Nó hấp tấp banh miệng Ba, bã mía vụn tướp trong miệng, nói moi lấy moi để, nhặt từng vụn mía dắt chân răng, rồi lấy khăn lau miệng, lau lưỡi, rồi lấy nước lọc khẽ nhỏ cho Ba mấy thìa. Đó là bữa ăn cuối cùng của Ba, từ sau đó Ba luôn cắn chặt răng, không thể cậy ra, không thể cho thêm được gì vào miệng, ngoài nước lọc. Rồi Ba đi. Mẹ bảo:

- Ba con biết nên Ba con ăn mía cho sạch miệng đó.

 

Nhưng rất nhiều lần nó nghĩ về chuyện đó. Liệu có phải Ba đã làm việc quá sức khi đã lẫn, theo thói quen cứ nhai, nhai mãi, đến cuối cùng hai hàm cắn chặt nhau không thể tách rời.

 

Khi Ba mất, mở hộp đồ lưu niệm của Ba, Ba để lại bức thư, dặn dò rất kĩ, từ việc mặc cho Ba bộ comple Bình may cho Ba khi Ba lên Hà Nội; bộ tam cúc bỏ vào lúc nào; đốt cái gì, giữ lại cái gì, cho ai… Ba còn dặn có 3,7 cây vàng, Ba để trong gối của Ba, đó là tiền lo ma chay cho Ba, và lo ma chay cho Mẹ sau này… Cuộc đời nó hầu như không nghe được lì yêu thương nào Ba nói với Mẹ, nhưng nó lại may mắn được chứng kiến những câu chuyện Ba Mẹ nhẹ nhàng mỗi đêm (vì nghĩ các con đã ngủ); chứng kiến Ba chăm sóc lúc đưa Mẹ và nó đi Hà Nội; … và cách Ba lo cả tiền ma chay của Mẹ, cách Ba giao toàn quyền cho Mẹ về nhà cửa đất đai, tài sản. Ba đi hơn chục năm, mẹ mới đi, nhưng trong cảm giác của nó, nó luôn tin Ba lên trước xây nhà, sắp chăn gối đợi Mẹ và đón chị gái về. Ngày Mẹ mất, trong giấc mơ gặp mẹ, nó rõ ràng đã thấy, trong ngôi nhà cổ, Mẹ ngồi đầu giường bồng em bé gái, Ba ghệ mông mép giường, nhìn Mẹ.

 

Nó đã có bài viết riêng về Mẹ. Trong mỗi câu chuyện trưởng thành của nó từ ấu thơ đến khi nó trưởng thành, thăng trầm, đều có Mẹ. Nó cũng luôn cảm thấy mình may mắn vì được chăm Mẹ lúc cuối cùng. Nhưng vẫn còn một nỗi ân hận sâu thẳm chưa bao giờ nguôi. Vào lúc Mẹ bệnh nặng nhất, nó vì công việc và gia đình nhỏ của mình, chọn dời Mẹ vào lúc Mẹ cần nó nhất:

- Con lên Hà Nội hai hôm, con sắp xếp công việc rồi con về ở hẳn nhà với U nhé!

- Cô đi đi … Nhưng cô đi chuyến này về thì vui lắm đấy!

- Con đi một hai hôm thôi!

- Tôi có mấy đồng và cái thư, tôi gói trong Tờ lịch có 5 con ngựa, đây rồi. Có gì cô cứ mở ra là hiểu.

Mẹ nói rồi vỗ vỗ vào bụng, lật lớp áo ngoài, chỉ vào túi áo lớp trong. Mẹ cười rất tươi.

 

Nó cứ thế đi Hà Nội, chưa kịp đến hẹn quay về thì Anh Cả gọi:

- Bà mệt lắm. Chắc không ăn thua, cô tính đưa về nhà hay đưa lên Hà Nội.

Nó không thể tin, mọi sự diễn biến nhanh thế. Nó quyết:

- Anh xin chuyển viện cho Mẹ lên Bạch Mai, Hà Nội.

Lên Hà Nội mẹ được lọc máu, chạy thận và làm tất cả những gì có thể, nó vòng trong, anh chị em cháu chắt vòng ngoài, được mươi ngày thì mẹ yếu dần và không giao tiếp nữa. Ngày cuối cùng, trong ít phút Mẹ tỉnh táo:

- Cô bảo nó cầm bộ quần áo … vào cho tôi!

- Con bảo y tá tắm gội khô cho U nhé. Bên trong sạch đến tinh khiết rồi. Chỉ tắm gội tí xíu nữa là ok.

Mẹ gật đầu. Nó còn chưa kịp nói gì, bé điều dưỡng vẫn chăm sóc Mẹ từ  ngày nhập viện ghé vào:

- Cụ ơi! Con tắm gội cho Cụ nhé, chiều Cụ về Thái Bình cho thơm tho.

Mẹ được tắm gội sạch sẽ và thay bộ quần áo đẹp Mẹ chọn mang đi từ lúc ở nhà. Mẹ được chăm sóc bởi những người chuyên nghiệp nên nhẹ nhàng, thanh thoát. Buổi chiều, xe bệnh viện cùng nó và người thân đưa Mẹ về nhà, bình yên, nhẹ nhõm, mẹ trút hơi thở cuối cùng 16h16 phút. Mẹ là tuýp người già hiện đại, cởi mở. Mẹ dặn:

- Tôi chết, các cô cứ thiêu cho sạch sẽ, sau này đỡ phải bốc mả như Ông, nhỡ thiếu sót gì tôi mất công về đòi.

 

Lúc đưa mẹ vào hỏa táng ở Đài hóa thân hoàn vũ Nam Đinh, nó và các anh chị em, khóc ngất, đau quặn như muốn chết. Vậy mà, lúc Mẹ ra, bộ cốt vàng ươm, sáng bóng, không một vết rạn. Mẹ vẫn đủ hình hài, thu gọn ở đây, đẹp đẽ. Tất cả gánh nặng ngay lập tức như được trút bỏ. Mẹ giống như đã lột xác bay lên, và trên cao miền cực lạc, nhìn xuống ân cần, tươi tắn. Chuyến xe đưa di cốt của Mẹ trở về không trĩu nặng như lúc đi. Trên chiếc tiểu, bát cơm quả trứng đôi đũa gỗ xoắn xuýt, hương thơm ngào ngạt, bỗng bùng cháy, nó cùng tất cả nhìn xuống, một nửa quả trứng đỏ lựng. Mẹ đi, để lại trứng vàng như thế.

 

Cảm ơn Ba Mẹ đã sinh ra con, cho con được làm con của Ba Mẹ. Con tự hào có được cốt cách của Ba và sự nhân ái, bao dung của Mẹ. Chúng con, mỗi người mỗi cách đều học hành bằng cấp cao hơn, nhưng chưa bao giờ học hết và làm trọn vẹn được những lời Ba dạy, Mẹ khuyên.  Cảm ơn Ba Mẹ đã để lại nếp nhà xưa. Nhớ Ba, nhớ Mẹ, nhớ Nhà, vẫn có NHÀ để về, ấm áp lắm.

 

Tháng 10 âm lịch mỗi năm, lần lượt giỗ Ba, giỗ Mẹ. Ba đi xa hơn 20 năm, Mẹ theo Ba ngót chục năm rồi, nhưng tận 60 tuổi, nhằm tháng 10 Ất Tỵ 2025, nó mới dành thời gian ghi lại được kỉ niệm này, và viết một bài thơ mới, nhờ AI Suno hát dâng Ba Mẹ.

 

Mỗi năm, lập đông buốt giá

Con về, tìm ấm hơi cha

Tháng Mười mưa rơi lắc rắc

Hạt buồn, hạt lạc, chơi vơi

Ba ơi, mẹ ơi, về thôi

Cửa nhà chúng con đã mở

Trên ban, đèn dầu thắp đỏ

Đợi người dắt bé… về… chơi

Chín người, mười phương, nơi nơi

Chúng con tìm về hương mẹ

Mỗi năm, đôi lần, chậm choẹ

Giỗ Ba, giỗ Mẹ thêm thương

Ba giờ khuất dặm đường xa

Mẹ giờ phôi pha sương khói

Tháng Mười nhớ Ba, thương Mẹ

Nhói lòng, mắt ứa… lệ sa

Nhớ sao tiếng Mẹ  mượt mà

Nhớ sao dáng mẹ điệu đà, mẹ ơi

Mẹ tôi da héo, đầy vơi

Mẹ tôi dầu dãi, chơi vơi …bao ngày

Nhớ Ba, da trắng, dáng gầy

Nhớ Ba xe đạp trật trầy, Ba ơi

Thân còm, mắt hốc, chân lơi

Tâm an, chí vững, cầm cương, mấy thời

Con về…, một vái, lên trời,

Một thêm vái mẹ, một thời vái Ba

Khói hương một chút gọi là

Qua năm, năm lại rồi qua mấy đời

Con đi, đời lại nối đời…

Cành sương, vương gió, bời bời nhớ thương

Con đi, đời lại nối đời

Cành sương, vương gió, nhớ thương vơi đầy

 

Hà Nội, tháng 10 Ất Tỵ

 

 

Các bài viết liên quan:

Những tác phẩm cũ hơn:

 
Mời các Tác giả gửi bài cộng tác cho Ban Biên tập Nhà Búp qua hộp thư email: nhabup.vn@gmail.com
Văn phòng Thường trực Ban Biên tập Nhà Búp: Số 24, Lý Thường Kiệt, Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội;
Ngoài địa chỉ: www.nhabup.vn, bạn có thể truy cập vào website này qua các tên miền quen thuộc: www.nhabup.net hoặc www.nhabup.com
Website đang được thử nghiệm và điều hành phi lợi nhuận, bởi các tình nguyện viên.