Chỉ tại... chẳng may....

Chỉ tại... chẳng may....
Tuy cùng chỉ nguyên nhân nhưng 바람에 "nhấn mạnh sự không cố ý", đến sự xảy ra ngoài dự liệu, ý muốn. Do vậy nó nên được dịch là lỡ, nhỡ, trót, chẳng may...dịch thế nào cũng được miễn thể hiện được cái sự ngoài dự liệu, chẳng may ấy.





CHỈ TẠI… CHẲNG MAY...

(Dương Chính Chức)

 

1. 바람에....là một cấu trúc khác hẳn với 아/어서, 때문에...

 

Tuy cùng chỉ nguyên nhân nhưng 바람에 "nhấn mạnh sự không cố ý", đến sự xảy ra ngoài dự liệu, ý muốn. Do vậy nó nên được dịch là lỡ, nhỡ, trót, chẳng may...dịch thế nào cũng được miễn thể hiện được cái sự ngoài dự liệu, chẳng may ấy.

 

- 늦잠을 자서 지각했어요: do dậy muộn nên bị trễ

- 늦잠 자는 바람에 지각했어요: lỡ ngủ quên nên bị trễ

 

바람에 mà dịch là "chỉ tại" là chưa chính xác.

 

Một lưu ý nữa là cấu trúc "V+는 바람에" là phổ biến, dù sau nó là thời quá khứ, người ta không, hoặc rất ít dùng cấu trúc chia "은/ㄴ 바람에“.

- 늦잠 자는 바람에 지각했어요 (v)

- 늦잠 잔 바람에 지각했어요 (x)

 

2. Trong gió.... là một cấu trúc hoàn toàn khác với 아/ /, 아...

 

Tuy cùng chỉ nguyên nhân nhưng 바람에 "nhấn mạnh sự không cố ý", đến sự xảy ra ngoài dự liệu, ý muốn. Do vậy nó nên được dịch là lỡ, nhỡ, trót, chẳng may...dịch thế nào cũng được miễn thể hiện được cái sự ngoài dự liệu, chẳng may ấy.

 

- Ngủ trưa thức khuya : dậy muộn

- Gió ngủ trưa tỉnh giấc : Lỡ ngủ quên nên trễ giờ

 

바람에 mà dịch là "chỉ tại" là chưa chính xác.

 

Một lưu ý nữa là cấu trúc "V+ nó ," phổ biến, dù là quá khứ, người ta không sử dụng, hoặc rất hiếm khi sử dụng cấu trúc phân cách " tr/ c ý".

- Tôi thức dậy bằng cơn gió ngủ trưa (v)

- Thức dậy bởi cơn gió của giấc ngủ trưa (x)