• dau-title
  • Lý luận - Phê bình
  • cuoi-title

Sự tinh tế riêng cho sáng tạo và thưởng thức Nghệ thuật xưa

Thứ hai - 08/06/2020 08:46

Nói về Thơ Đường, có thể thấy ngay đó là sự sáng tạo tuyệt vời về ngôn ngữ. Bởi thơ Đường là ý tại ngôn ngoại, là thơ ít lời mà nhiều ý, ý ở ngoài lời. Mỗi bài thơ giống như một bài toán ngắn gọn nhằm giải đáp một vấn đề xã hội nào đó. Đọc thơ Đường là cảm về cái hay của nhạc, là lắng cái âm hưởng và hình ảnh, rồi đến ngôn từ và cuối cùng là cảm cái tình của bài thơ. Cảm nhận thơ Đường là cảm nhận sự kết hợp tinh hoa và hài hòa về nhạc, họa, ngôn, tình của con người và thiên nhiên. 



Ngày còn nhỏ, chừng 7- 8 tuổi gì đó, tôi sống với ông bà ngoại, quanh năm suốt tháng ngồi trong hầm tránh bom. Những tối mùa đông mưa rả rích, Ông ngoại dạy tôi bằng cách ngâm ngợi rồi bình thơ Đường. Và thế là, duyên nợ của tôi với văn chương, với thơ Đường, bắt đầu từ ngày đó.


Những cảm nhận của tôi về thơ Đường từ ngày bé cho đến bây giờ luôn là những gì lung linh nhất, những tuyệt tác được các vĩ nhân tạo nên. Tôi luôn nghĩ thơ Đường không phải là ngôn ngữ của người thường mà chính là ngôn ngữ của Thần. Bài thơ Đường nào cũng gọn nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả, ý tại ngôn ngoại. Vì hạn chế về số chữ sử dụng trong một bài thơ nên các nhà thơ Đường đã luôn phải kết hợp giữa những điển tích trong lịch sử, những cảm ngộ của cảnh giới tinh thần cao với nét tinh hoa của văn chương. Một bài thơ nhiều khi chỉ vẻn vẹn có hai mươi chữ nhưng lại có thể thể hiện một cách chân thật và đầy đủ về cuộc sống muôn màu muôn vẻ, với tất cả các nét tinh hoa của nền văn hóa thần truyền. Thơ Đường là vượt lên trên hết cả những lời thuyết lý khô khan. Càng ít chữ thì lại càng phải cân nhắc khi dùng. Vì thế, ngôn ngữ trong thơ Đường thật sâu, thật đắt. 


Trong các bài thơ ngoại dạy tôi, có một bài mà sau này tôi thường ngâm nga, với ước mong được sống chậm với cha ông. Đó là bài thơ Hoài thượng biệt hữu nhân (Trên sông Hoài từ biệt bạn) của Trịnh Cốc. Bài thơ chứa Âm nhạc mênh mang, khiến tôi quên chiến tranh và những đám ma ai oán của một thời loạn chiến. Cứ như được lọt vào cái thời Trinh Quán của Đường Thái Tông. 


淮上別友人  

揚子江頭楊柳春, 

楊花愁殺渡江人。 

數聲風笛離亭晚, 

君向瀟湘我向秦。


Hoài thượng biệt hữu nhân


Dương Tử giang đầu dương liễu xuân

Dương hoa sầu sát độ giang nhân

Sổ thanh phong địch ly đình vãn

Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần

Dịch nghĩa: Trên sông Hoài từ biệt bạn


Bên sông Dương Tử, dương liễu đượm sắc xuân,

Hoa dương liễu khiến người qua sông buồn chết người.

Vài tiếng gió vi vút ở đình ly biệt chiều xuân,

Anh đi tới sông Tiêu Tương, tôi đi tới đất Tần.


Dịch thơ (Bản dịch của Cao Tự Thanh)


Dương Tử đầu sông dương liễu xuân, 

Hoa dương buồn chết khách qua sông, 

Sáo buông mấy tiếng đình phai nắng, 

Người hướng Tiêu Tương kẻ hướng Tần.


Dịch thơ (Bản dịch của Trần Trọng Kim)


Liễu mùa xuân, bến sông Giang,

Qua sông ai thấy hoa dương, ngậm ngùi.

Gió đưa điệu sáo muộn rồi,

Anh sang bến Sở, ta lui cõi Tần. 


Trước hết là nói về tác giả của bài thơ. Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911) tên chữ là Thủ Ngu 守愚, người Viên Châu, Giang Tây (nay thuộc Nghi Xuân), đỗ Tiến sĩ năm 887, làm quan tới chức Lang Trung (cỡ Vụ trưởng), sau về ẩn ở Bắc Nham. Còn sông Hoài trong bài thơ trên của Trịnh Cốc là sông Tần Hoài ở ngoài thành Nam Kinh, khởi dòng từ tỉnh Giang Tô, qua huyện Giang Minh rồi chảy vào sông Dương Tử…


Bài thơ nói về cảnh chia tay bạn trên sông Hoài, trong một chiều xuân. Ngậm ngùi nhìn dương liễu ra hoa trên sông Dương Tử. Khung cảnh tiễn biệt diễn ra ở nơi ngã ba sông, mà như thấy cảnh chia ly “sầu sát” trải dài mãi tới phía xa kia. Một người đi xuống phía nam, còn người kia đi lên phía bắc. Hoa dương liễu nở chiều tháng ba, có lẽ cánh hoa trôi đầy mặt nước. Tiễn bạn qua sông, mà “sầu sát”, mà buồn tới mức héo ruột sầu lòng. Với nỗi buồn biệt ly ấy, người nam kẻ bắc còn thêm rầu vì thứ hoa nhắc xuân sắp hết. Cái chữ “sầu sát” này (nghĩa là buồn chết đi được), nếu dịch ra tiếng Việt mà chỉ dùng chữ “ngậm ngùi” thì chắc chưa đủ để nói đến mức độ đau buồn tới xót lòng của đôi bạn ngồi thẫn thờ bên nhau. Họ ngồi lâu quá, khiến gió cũng sốt ruột mà cất tiếng sáo giục giã “muộn rồi”. 


Tôi đã ngồi trên bến đá sông La mùa nước đầy. Nhìn những bông hoa Mưng trôi đầy mặt nước, cũng nhơ nhớ một tri âm nào đó. Trải mấy chục năm rồi người quen cứ thành lạ hết. Gặp ai tôi cũng được ngồi chiếu dưới. Muốn gặp tri âm như Trịnh Cốc, để rồi có cái phút bên sông Hoài chia tay bạn, như người xưa. Chao ôi, ước sao có một người như thế. Dù là để chia tay cho lòng còn ở lại với tiếng sáo bên sông.


Về sông La

Hoa Lộc Vừng đã hết

Lở bồi

Thao thiết

Cũng ra đi…


Và tôi ngồi ngắm bức Thư Pháp về bài thơ này mà lòng thấy thật bồi hồi. Thơ và chữ. Thiên tài của Thi nhân và Rồng bay phượng múa của bức tranh thơ.


No automatic alt text available.

Bức tranh thư pháp “Trên sông Hoài từ biệt bạn”



Người xưa coi Thư Pháp là loại hình siêu nghệ thuật. Không biết để cho Vương Hy Chi, Vương Duy, Tô Đông Pha hay Cao Bá Quát viết sẽ thế nào nhưng chỉ nhìn bức vô danh này tôi đã tâm phục khẩu phục rồi. Những con chữ như sinh mệnh có những tính cách rất riêng. Chữ thì khiêm nhường, rụt rè, thỏ thẻ những giai điệu sâu lắng. Chữ thì công khai phô diễn nội tâm, tạo nên chủ âm cho bản nhạc lòng nhờ tiếng sáo đưa vứt vào không gian. Chữ THANH to lên bất ngờ ngoắt cái đuôi vòng vèo của một con thuyền chông chênh tay lái muốn xuôi cùng thuyền bạn.


Chữ to, chữ nhỏ dập dờn lay động không thôi một nỗi lòng. Hai chữ cân xứng rất giống nhau là XUÂN, TẦN như hai người ly biệt. Như một mà phải thành hai bởi biệt ly. Chữ DƯƠNG xuất hiện 3 lần, 3 chữ đều viết khác nhau. Dương Liễu ở đầu sông xa ngái với chữ Liễu nhỏ li ti. Đến cây Dương Liễu ở gần tràn sức xuân. Chữ Liễu to lên và thật sinh động. Đến Dương Hoa thì chữ DƯƠNG nhỏ thó như là hoài niệm. Nhờ nhìn hoa trôi trên sông, dạt vào bến, mà biết có rặng Dương Liễu đầu nguồn. Bức Thư Pháp đang phổ nhạc bài thơ bằng hội họa. Ngắm chữ mà thấy cảnh, đọc thơ mà thấy như đang ngậm nhạc mà hát. Ôi chao, sao đời lại khéo có cái tài hữu tình trong những sự tưởng như vô tình vậy. Để cho người tri âm, đồng cảm cứ như nương vào, như quấn quýt, như bay bổng...


Những bản nhạc Việt hay nói tới BẾN GIANG ĐẦU, phải chăng từ bài thơ này?


Không ngẫu nhiên mà Trên Sông Hoài Giã biệt người bạn. Hoài là danh từ riêng, nhưng nó cũng là nỗi nhớ, hoài niệm…


Nhắc tới sông này nhớ ngày xưa Hàn Tín câu cá sông Hoài, ăn nhờ cơm Phiếu Mẫu. Ôi, Đường Thi đâu đâu cũng bàng bạc như là kỷ niệm của chính mình. Phải chăng rất nhiều, rất nhiều người Việt Nam mình kiếp trước là người nhà Đường, giờ chuyển sinh. Cho nên, cái gen lặn giờ nó trội lại?


Cha ông mình có chữ Thánh Hiền. Có sự tinh tế riêng cho sáng tạo và thưởng thức Nghệ thuật.


Mà ta cứ ngâm nga những vần thơ này đi. Sống chậm với cha ông chút đi. Đâu cần phải hiểu. Mà rồi cùng hiểu. Hiểu cái bao la, sâu sắc, vĩ đại của một nền văn hóa Thần truyền...


La Vinh



Các bài viết liên quan:

Những tác phẩm cũ hơn:

Những tác phẩm mới hơn:

 
Mời các Tác giả gửi bài cộng tác cho Ban Biên tập Nhà Búp qua hộp thư email: nhabup.vn@gmail.com
Văn phòng Thường trực Ban Biên tập Nhà Búp: Số 24, Lý Thường Kiệt, Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội;
Ngoài địa chỉ: www.nhabup.vn, bạn có thể truy cập vào website này qua các tên miền quen thuộc: www.nhabup.net hoặc www.nhabup.com
Website đang được thử nghiệm và điều hành phi lợi nhuận, bởi các tình nguyện viên.