- Dịch thơ
Lời than của bà nhặt hạt dẻ
Chủ nhật - 10/11/2019 11:16
Lời than của bà nhặt hạt dẻ
Cuối thu, hạt dẻ già rồi,
Rải rác rụng khắp trên đồi đầy gai.
Bà già còng, tóc bạc phai,
Dẫm gai lội lớp sương mai nhặt về.
Khá lâu được vốc, lưng tê,
Cả ngày mới được lưng sề, bùn pha.
Phơi đi, phơi lại, sàng ra,
Để làm lương thực trong ba tháng ròng.
Trước núi, lúa chín đầy đồng,
Bông dày tím sẫm, khoảng không ngạt ngào.
Gặt, xay, giã kỹ làm sao,
Gạo trắng như ngọc khác nào linh đan.
Thế rồi đem gạo nộp quan,
Cửa nhà dốc sạch bồ tràn, bồ vơi.
Sao hơn một thạch, hỡi trời!
Chỉ tính năm đấu, có đời nào không?
Lại gian chẳng sợ phép công,
Quan tham trắng trợn cướp không e dè.
Vay mượn, cày cấy, chẳng nề,
Gặt rồi thu hết trọn về kho quan
Từ đông đến tận xuân sang,
Hạt dẻ lót dạ ngày hàn sa cơ.
Nghe Điền Thành Tử ngày xưa,
Chỉ nhân nghĩa giả nghiệp vua cũng thành.
Gặp bà nhặt dẻ, áo manh,
Bổng dưng lệ rớt thấm lần áo ta.
Tác giả: Bì Nhật Hưu
Chuyển ngữ: Lương Bảo
--------
Nguyên tác tiếng Hán:
橡媼嘆
秋深橡子熟,
散落榛蕪岡。
傴傴黃發媼,
拾之踐晨霜。
移時始盈掬,
盡日方滿筐。
幾曝複幾蒸,
用作三冬糧。
山前有熟稻,
紫穗襲人香。
細獲又精舂,
粒粒如玉璫。
持之納於官,
私室無倉箱。
如何一石餘,
只作五鬥量。
狡吏不畏刑,
貪官不避贓。
農時作私債,
農畢歸官倉。
自冬及於春,
橡實誑饑腸。
吾聞田成子,
詐仁猶自王。
籲嗟逢橡媼,
不覺淚沾裳。
Tượng uẩn thán
Thu thâm tượng tử thục,
Tán lạc trăn vu cương.
Ủ ủ hoàng phát ảo,
Thập chi tiễn thần sương.
Di thì thuỷ doanh cúc,
Tận nhật phương mãn khuông.
Kỷ bộc phức kỷ chưng,
Dụng tác tam đông lương.
Sơn tiền hữu thục đạo,
Tử tuệ tập nhân hương.
Tế hoạch hựu tinh thung,
Lạp lạp như ngọc đương.
Trì chi nạp ư quan,
Tư thất vô thương tương.
Như hà nhất thạch dư,
Chỉ tác ngũ đấu lường.
Giảo lại bất uý hình,
Tham quan bất tỵ tang.
Nông thì tác tư trái,
Nông tất quy quan thương.
Tự đông cập ư xuân,
Tượng thực cuống cơ trường.
Ngô văn Điền Thành Tử,
Trá nhân do tự vương.
Dụ ta phùng tượng ảo,
Bất giác lệ triêm thường.
Dịch nghĩa
Cuối thu, quả dẻ chín,
Rụng rải rác trên đồi đầy gai góc.
Một bà lão lưng còng, tóc ngả màu vàng,
Dẫm lên lớp sương mai để nhặt,
Khá lâu mới được một vốc tay,
Cả ngày mới được đầy rổ.
Rồi phơi đi, hấp lại mấy lần,
Để làm lương ăn trong ba tháng đông.
Trước núi có đồng lúa chín,
Nhưng bông lúa tím sẫm, ngào ngạt hương thơm.
Gặt lượm cẩn thận, xay giả kỹ càng,
Những hạt gạo trắng muốt như ngọc.
Đem gạo nộp cho quan,
Là kho nhà trống trơn.
Tại sao hơn một thạch gạo,
Mà chỉ tính có năm đấu?
Bọn gian lại chẳng sợ phép nước,
Lũ tham quan không kiêng dè việc ăn của đút lót.
Đang vụ phải đi vay để cày cấy,
Gặt về, kho nhà nước thu vào hết.
Từ mùa đông đến mùa xuân,
Lấy quả dẻ để đánh lừa dạ dày.
Ta nghe xưa có Điền Thành Tử,
Chỉ nhân nghĩa vờ mà dựng được nghiệp vua.
Than ôi! gặp bà nhặt hạt dẻ,
Bổng dưng lệ rơi thấm áo xiêm.