
- Lý luận - Phê bình

Đọc thơ Trần Huyền Tâm
Thứ năm - 25/12/2025 10:20

ĐỌC THƠ TRẦN HUYỀN TÂM
TS Nguyễn Sĩ Đại
Năm 1975, đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh với những vết thương còn rỉ máu, kinh tế kiệt quệ, lại rơi ngay vào sự cấm vận ngặt nghèo… Sản xuất đình trệ. Ngân khố, lương khố cạn kiệt. Miền Bắc không đủ bo bo (mì hạt), Miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ không đủ củ mì (sắn) mà ăn. Đói kém mọi mặt. Nhiều người không tìm thấy con đường sống, không tìm thấy tương lai ở xứ sở, tạo ra một làn sóng di tản ồ ạt, kéo dài có một không hai trong lịch sử, bằng đường bộ, đường biển, đường không, nhưng chủ yếu là đường biển. Từ “thuyền nhân” ra đời làm trôi dạt hàng triệu số phận. Theo một ước tính của Cao ủy LHQ về người tị nạn, khoảng 200.000 đến 400.000 thuyền nhân chết trên biển do mọi nguyên nhân. Trại tị nạn cho người Việt Nam đến năm 2001 mới chính thức đóng cửa.
Vậy mà Thái Bình, ngay mùa hè năm 1976, đã cho mở “Lớp Đào tạo, bồi dưỡng Các em thiếu nhi có năng khiếu sáng tác văn học”. Đây không chỉ là sự lãng mạn, là tầm nhìn xa mà còn là sự thắt lưng buộc bụng, dè sẻn chi tiêu của cả một tỉnh cho các em đủ lương thực cung cấp và những chi phí khác.
Nhà thơ Kim Chuông, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình - Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Thái Bình - Chủ nhiệm lớp, kể: “Tôi nhớ, sau một năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình, là tỉnh đầu tiên khởi xướng, mở lớp “Đào tạo, bồi dưỡng cho các em có năng khiếu sáng tác văn học” vào các tháng hè. Lớp học kéo dài 15 năm liên tục với 200 “Nhà văn nhí” đi qua. Về gắn bó với lớp là các Nhà văn, các thầy danh tiếng từ Hà Nội như: Tô Hoài, Phạm Hổ, Vũ Tú Nam, Võ Quảng, Định Hải, Phong Thu … cùng các nhà văn Bút Ngữ, Kim Chuông, Nguyễn Khoa Đăng, Lê Bính … ở Thái Bình, cùng chăm lo việc “cày cấy, ươm gieo” một thế hệ văn chương được mang tên “Nhóm Búp”. “Nhóm Búp” là tên các em tự đặt sau này, có lẽ xuất phát từ “Búp trên cành” - cái tên tạp chí mà chúng tôi xuất bản dành để đăng những sáng tác của các em”.
Những chuyện này bây giờ nghe quá bình thường. Nhưng những năm ấy, chỉ có giấy để in thôi cũng là một kỳ công. Nhà báo Phan Quang từng kể với tôi: Khi ông dịch xong “Nghìn lẻ một đêm” có báo cáo với Tổng Biên tập Báo Nhân Dân Hoàng Tùng, vừa là thủ trưởng trực tiếp của ông, vừa là tư lệnh ngành tuyên huấn của cả nước – nhiều người thường gọi đùa là “cha đạo cộng sản”. Ông Tùng đề nghị chưa nên in, dành giấy để in báo và những tài liệu cần thiết khác trước. Tình trạng thiếu giấy vở học trò, thiếu giấy in báo, giấy in sách kéo dài mấy chục năm. Sách báo in được, hầu hết trên một thứ giấy đen thui, sần sùi mạt nứa, mực in cũng thiếu, đọc chưa hết một trang đã đau mắt.
Trần Thị Tâm, bút danh Trần Huyền Tâm, là học sinh khóa II.
Tâm kể về chuyện đi “chiêu mộ” các nhà văn nhí của tỉnh Thái Bình hồi đó: “Ông (nhà thơ Kim Chuông) tìm đến nhà tôi trên cái xe đạp cà tàng, chỉ để xác minh việc một “cô bé ở làng Lác, tên Tâm, mới bé tẹo tẹo mà đã biết làm thơ”, theo lời giới thiệu của chị Sóng Biển ở xã Đông La, người đã theo học Lớp Búp từ mùa hè năm trước. Kim Chuông kiểm tra xem có đúng tôi là người đã viết bài thơ “Ngõ nhỏ” năm lên 10 tuổi không. Bài thơ “Ngõ nhỏ” sau đó được ông sửa lại thành “Ngõ nhỏ ngày mùa”, được gửi đi tham dự và đoạt giải A cuộc thi “Em yêu đồng ruộng quê em” do Báo Thiếu niên tiền phong tổ chức năm 1980-1982.
Sau khi xác minh về tôi và “thành công mỹ mãn” trong việc thuyết phục mẹ tôi cho tôi tham gia lớp bồi dưỡng các “nhà thơ nhí”, ông vui vẻ ngồi nhâm nhi chén trà xanh với một nửa cái bánh đa nướng (do bà Hồ hàng xóm nhà tôi vừa đi chợ về, thấy bảo có một nhà thơ trên tỉnh về, nên đã rẽ bờ dậu thưa ngăn cách giữa hai nhà, mang cho mẹ tôi đãi khách). Sở dĩ tôi phải dùng từ “thành công mỹ mãn” cho chuyến “chiêu sinh” này của ông vì lúc ấy nhà tôi rất nghèo. Mẹ tôi, một vợ liệt sĩ, một mình bươn chải vất vả tối ngày để nuôi nấng 5 chị em tôi, nên dù có sự hỗ trợ về nơi ăn chốn ở của Hội Văn nghệ cho các Búp, mẹ cũng không dễ dàng đồng ý ngay việc cho tôi đi lên tỉnh mấy tuần liền trong dịp nghỉ hè, chỉ để “tập làm một nhà thơ nhí” (https://vanvn.vn/kim-chuong-mot-nguoi-thay-cua-cac-nha-van-nhom-bup/).
Cô bé làng Lác (1965) ngay khi ấy đã có một số bài thơ, trong đó có những câu thơ, bài thơ còn được bạn bè nhớ đến bây giờ: Đâu đây thoang thoảng mùi hương/Ngẩng lên đồng lúa ai đơm nắng vàng (Qua mùa lúa, 1977)
Và bài “Hương cau”:
Mẹ từ ngoài vườn về
Hương cau đầy mái tóc
Tần ngần tay con nhặt
Hoa cau vương mái đầu
Bà kể chuyện dưới trăng
Hương cau thơm lời nói
Miếng trầu như ấm lại
Trong câu chuyện ngày xưa
Gió sớm mai nhẹ đùa
Hoa rơi đầy vại nước
Con nhặt hoa tới trường
Hương cứ bay đi trước
Thơm hơn bao giờ hết
Là những đêm dưới trăng
Cửa sổ con để ngỏ
Hương hoa bay đầy phòng
Hoa thả hương vào gió
Đọng trên những giọt sương
Sáng mai ai dậy sớm
Hoa sẽ dành cho hương.
Đây là bài chính trong chùm thơ Ngõ nhỏ ngày mùa, Trên trang sổ của mẹ và Hương cau đã đoạt Giải A một cách thuyết phục cuộc thi “Em yêu đồng ruộng quê em” do Tổ chức Lương thực thế giới (FAO) và Báo Thiếu niên Tiền phong tổ chức năm 1980 -1982.
Sau này, Trần Thị Tâm tốt nghiệp Học viện Ngoại giao, làm tới Phó Cục trưởng Cục Lãnh sự. Chị đã có các tập thơ được xuất bản:
- Giọt nắng vô thường - Tập thơ - NXB Hội Nhà văn – 2018
- Diệu khúc thời gian - Tập thơ - NXB Hội Nhà văn – 2019
- Tản mạn miền sương khói - Tản văn - NXB Hội Nhà văn – 2019
- Diệu khúc Sen - Tập văn thơ - NXB Hội Nhà văn - 2019 (Chủ biên)
- Búp và Hoa - Tập văn thơ - NXB Thế giới – 2019 (Chủ biên)
- Gửi miền yêu thương - Tập thơ – NXB Hội Nhà văn - 2019 (Chủ biên)
- Khung trời bình yên – Tập văn xuôi – NXB Thanh niên - 2019 (Chủ biên)
- Mây ngàn năm vẫn đợi – Tập thơ – NXB Hội Nhà văn - 2020
- Thơ Chùa Keo – NXB Hội Nhà văn, 2020 (Chủ biên)
- Khúc tâm du – Tập thơ – NXB Hội Nhà văn – 2021
- Duyên – Tập văn thơ - NXB Hội Nhà văn - 2023 (Chủ biên)
- Duyên 2 – Tập văn thơ - NXB Hội Nhà văn - 2024 (Chủ biên)
- Lưng túi gió trăng – Tập tiểu luận phê bình – NXB Hội Nhà văn – 2024
- Đường về - Tập thơ – NXB Văn học – 2025.
Chị là người có sáng kiến tập hợp nhóm các nhà văn, nhà thơ Nhà Búp thuở ấy và là chủ soái của diễn đàn “Nhà Búp.vn”, một tạp chí văn nghệ nối dài “Búp trên cành”. Chị và những cây bút xuất sắc của nhóm đã khẳng định được lời tiên đoán của các bậc cha chú năm xưa: “Tia nắng khiêm nhường này sẽ lung linh, sẽ mãi còn trên miền trời xa thẳm của lịch sử văn chương đất nước”.
***
Trần Huyền Tâm có một câu thơ tôi rất thích “Ta bên hoa, lời thêm nữa là thừa”. Bạn đọc đọc thẳng thơ của chị mới thưởng thức được vẻ đẹp nguyên khiết của thơ, người phê bình nói thêm nữa là thừa.
Thơ Trần Huyền Tâm thống nhất mà đa dạng, dễ đọc nhưng khó hiểu, đôi lúc thanh tao một cõi riêng không muốn cõi hồng trần chạm đến. Và như vậy, nó xa với một thứ thơ ta thường quan niệm; nó có một cách đi riêng, một phong cách Trần Huyền Tâm rất rõ.
Tôi thích thơ chị trong giai đoạn đầu, chủ yếu được viết trong thời học sinh, sinh viên, khi mà hồn chị lẫn trong cỏ cây hoa lá quê nhà, lòng sáng ngày thu, tình nồng tháng hạ. Hoa thả hương vào gió/ Đọng trên những giọt sương/ Sáng mai ai dậy sớm/ Hoa sẽ dành cho hương. Đó là những câu thơ tả thực, mà cũng mang độ sâu của liên tưởng, khái quát và có thông điệp dịu dàng, thơm tỏa. Ai thuộc câu thơ ấy, không chỉ để ngâm nga sung sướng mà còn sẽ có định hướng đúng cho cuộc đời mình. Gọi nó là câu thơ thiếu nhi đáng yêu cũng đúng mà thần thi, thánh thi cũng đúng!
Tôi yêu những câu thơ mộc mạc ca dao mà thăm thẳm tình người: Vôi vẫn bạc, trầu vẫn cay/Vàng không tiếc, tiếc kẻ say đắm mình (Cầm vàng đừng để vàng rơi)
Tôi thấy bóng dáng một Xuân Diệu, một Vũ Hoàng Chương… trong thơ Trần Huyền Tâm với niềm hân hoan, vui sống. Sống vội vàng. Sống hết mình. Sống no nê thanh sắc của thời tươi. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”… Chị viết về Miền Tây: Vạt nắng chiều thánh thót giữa ngàn xanh/Bập bùng thắp sắc phượng ngày hạ cháy (Miền Tây hẹn đợi). Về Đá Nhảy ở Bố Trạch, Quảng Bình (nay là Quảng Trị): Đá líu ríu dắt nhau chồng bước nhảy /
Nước nhuốm vàng điệu vũ rước bình minh/Ngực đá ran hay sóng biết thật mình/
Mà xuân thì phập phồng từng nhịp thở… (Bình minh Đá Nhảy). Viết về tháng mười hai: Ai rót mật vào Mười Hai thương nhớ/Để ngọt ngào thơm lựng má ngày đông/Vàng cứ mơ trên sắc cải hoa ngồng /Xanh cứ thắm tới tận cùng mắt biếc (Ghi ở Mười Hai)
Cái mật ngọt của tháng, cái thánh thót của nắng, cái líu ríu của đá chính là sự lịm ngọt, thánh thót, líu ríu từ trái tim yêu sống đầy nhiệt huyết của Trần Huyền Tâm và nó vỗ sóng sang ta, dệt thành niềm yêu đời bất tuyệt. Đây chính là nhân văn, nhân bản, là Đạo chứ ở đâu xa?
Tôi yêu những câu thơ trong “Đi biển mùa xuân”: Véo von, xúng xính áo quần/ Tóc mây vén gọn, hoa chân căng đầy; trong “Giấc mơ em” Bờ vai chiều đẫm mùi cỏ mật/ Vòng tay đêm nưng nức thơm đầy… những câu thơ đầy gợi cảm và sáng tạo về mặt ngôn ngữ. Nhà thơ là người làm giàu cho tiếng Việt. Về phương diện này, Trần Huyền Tâm là một cây bút có công.
***
Nếu lấy thơ hay viết về quê để làm tiêu chi đo tình yêu quê hương thì Trần Huyền Tâm là người yêu quê Thái Bình vào bậc nhất.
Khi Bà Huyện Thanh Quan sắp bước qua Đèo Ngang để vào Huế, nơi triều Nguyễn đóng làm kinh đô, lòng hoài Lê, nhớ nước cũ bỗng dội lên thành một bài thơ tuyệt bút:
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Khi nghe tin sáp nhập tỉnh (chủ trương này được thông qua bởi Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, nhập Thái Bình vào Hưng Yên, lấy tên tỉnh là Hưng Yên). Mất đi một tên làng, tên tỉnh là mất đi một miền văn hóa, miền ký ức và những gì thiêng liêng nhất người ta từng yêu mến, từng sống để xây dựng, dám chết để giữ gìn. Trước thế năng đó, Trần Huyền Tâm đã viết được bài “Quê ơi”. (Nếu có một chút liên hệ thì bà Nguyễn Thị Hinh từng sống ở huyện Thanh Quan gồm Đông Hưng, Thái Thụy, tỉnh Thái Bình khi chồng bà là Lưu Nghi (1804-1847) làm tri huyện ở đấy). Toàn văn bài thơ của Trần Huyền Tâm cũng là nỗi lòng xa xót nhớ về quê cũ và khẳng định một điều: Cái tên Thái Bình, văn hóa đặc trưng Thái Bình không bao giờ mất:
QUÊ ƠI!
Biết là duyên phận phải chiều*
Sao còn tơ tưởng mấy điều viển vông.
Ngước trông vẫn cói xanh đồng
Vẫn đay, vẫn lúa mênh mông cánh cò.
Cây đa vẫn chốn hẹn hò
Dòng sông vẫn sóng con đò lại qua.
Gạo Gù vẫn đỏ tháng Ba
Chiếu chèo Làng Khuốc vẫn à í ơi.
Đống Năm, Cầu Nguyễn ghé chơi
Chả giò, bánh cáy vẫn lời thiết tha.
Làng vườn Bách Thuận vẫn hoa
Đồng Châu vẫn sóng vỗ qua Diêm Điền.
Quê đâu chỉ bởi cái tên
Quê là tất cả nỗi niềm thương yêu.
Phải duyên thì bắc cầu kiều
Giá gương đâu ngại nhiễu điều phủ quên.
Bận lòng chi một cái tên
Hồn Quê phách đạo lạc tiên cõi người.
Ấm lòng khẽ gọi: “Quê ơi!”
Đã nghe yêu dấu “Dạ” nơi tim mình.
26/4/2025
*Duyên phận phải chiều là tên một bài hát chèo cổ.
Tôi tin không chỉ người Thái Bình, nhiều người khác cũng đồng cảm sâu sắc với bài thơ này. Hay nói một cách khác, bài thơ đã nói lên tâm trạng xã hội và có giá trị lịch sử nhất định.
***
Có một mảng thơ đặc biệt khác của Trần Huyền Tâm, tạm gọi là Thiền. "Mùi thiền đã bén muối dưa/ Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng". Chất thiền ấy có gốc rễ từ thiện tâm, từ bản tính bao dung của chị và được bổ sung bằng con đường học vấn, kinh lịch qua nhiều cảnh ngộ, qua nhiều vùng đất thế giới. Nhiều người học nhiều, biết nhiều để mưu lợi ích riêng. Có người học nhiều, biết nhiều để làm một thiên sứ loan truyền chân lý. Tôi nghĩ Trần Huyền Tâm làm thơ như một sứ mệnh.
Từ những nhận thức bình thường: Mới hay cái lý của Giời/Chẳng nhằm vào chỗ đông người mà phê (Đọc sách), đến cách tu tập, hòa với tự nhiên để ngộ ra chân lý: “Ta từ lời thệ mà xanh/ Từ trong tĩnh lặng mà thành chân như”.
Dù là một giọng thơ đa phong cách, dù mỗi thời kỳ sáng tác thể hiện những sắc màu khác nhau thì thơ của Trần Huyền Tâm có thể gói trong bốn chữ: Tin yêu, giác ngộ. Sự tin yêu, giác ngộ ấy được thể hiện tập trung ở bài Đi qua ngày bão giông, tặng chồng - người bạn tri kỷ từ thuở sinh viên:
“Vẫn là anh trong vắt một hình hài
Bàn tay ấm nồng huyền thoại
Bước qua bão giông, vàng kim ở lại
Bên đời diệu phúc thái lai.
Vẫn là anh trong vắt một hình hài
Bên em thiện lành nhân ái
Bước qua bão giông, tin yêu ở lại
Thương người đỡ đoạn trầm luân.”
Tôi có thể nói, đọc thơ Trần Huyền Tâm rất thú vị vì nó rất hồn nhiên mà cũng rất uyên áo; rất quen thuộc mà cũng rất mới lạ. Hình ảnh, từ ngữ sống động, ríu rít.
Ai quen biết Trần Huyền Tâm đều yêu quý chị. Và thơ chị là một phần của tình yêu thương ấy, của nỗ lực chăm bón để dâng cho ta phần hương hoa. Nếu để bày tỏ mong muốn, thì tôi mong muốn chị bớt chạy theo khái niệm, từ ngữ mới lạ mà ấp ủ hồn mình cùng tự nhiên để đẻ ra những câu thơ chín như trái ngọt vườn nhà… Và đạt được điều như chị từng nói:
“Thơ yêu chừng cũng kiệm lời
Tịnh như cát dưới chân người… lặng im.”
…..
“…Em gọi nhớ! Gọi cho chiều bớt vắng
Nghe tay mình ấm nắng giữa lòng mưa!”
Tôi tin bạn đọc sẽ bớt vắng, sẽ có sự ấm áp khi đọc thơ Tâm.
Hà Nội, 19/11/2025
NSĐ



