
- Lý luận - Phê bình

Trần Thu Huê - một gương mặt văn xuôi trong tốp đầu "các Nhà văn nhóm Búp"
Thứ tư - 17/12/2025 08:11

TRẦN THU HUÊ
MỘT GƯƠNG MẶT VĂN XUÔI
TRONG TỐP ĐẦU
“CÁC NHÀ VĂN NHÓM BÚP”
Đọc “Những ngày tươi đẹp” - Tập truyện, ký của Trần Thu Huê – NXB Văn học, 2025
Nhà thơ KIM CHUÔNG
Nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình
Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Thái Bình
Có thể nói, “Lớp Đào tạo, Bồi dưỡng các em thiếu nhi có năng khiếu sáng tác văn học của Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình” được khởi xướng đầu tiên và trước nhất trên đất Việt, từ những năm 1976 – 1990, đã để lại màn minh tinh “Khuê văn - Khiêm nhường, vọng vang” trong lịch sử “Bầu trời văn chương” Thái Bình, lịch sử văn chương cả nước, mà không dễ tháng năm nào, mảnh đất nào, có được.
Trong 200 “Nhà văn nhí” đi qua “Ngôi đền văn chương” này, tôi nhớ, cùng với Đỗ Mai Hương, Bùi Biên Linh (Sóng Biển), Bùi Thanh Huyền, Lã Bắc Lý, Đào Thanh Bình, Nguyễn Nga, Nguyễn Thị Minh Tuyết, Trần Huyền Tâm … thì, Trần Thu Huê, cô bé mới mười tuổi đầu, dường như “út ít nhất nhà” nhưng lại “ngự” chiếu đầu, niên khóa đầu, trong “Lò luyện văn chương” của Hội.
Sở dĩ, cô gái Kiến Xương có dáng mảnh gầy, đôi mắt long lanh sáng. Nét miệng luôn cười vui, bộc lộ nét thông minh, hóm và duyên lại được triệu về “Lớp Văn chương” sớm vậy?
Bởi, Trần Thu Huê, ngay từ khi còn đang học lớp Bốn trường làng, đã nổi danh, là học sinh giỏi Văn Quốc gia, đã được trao Giải thưởng Văn hay, đã có bài đăng trong cuốn sách “Những bài Văn được giải.”
Trần Thu Huê sinh ra và lớn lên trên đất Kiến Xương – Thái Bình. Đất của “Vua Ba Vành.” Đất của Nguyễn Mậu Kiến, Nhà yêu nước - Một Học giả có tên trong văn bia, sử sách. Đất của anh hùng Nguyễn Thị Chiên, của Phạm Tuân – Người tay không bắt giặc. Người đánh thắng B52. Người đầu tiên của đất này bay vào vũ trụ…
Trần Thu Huê bước vào “Cửa Khổng Sân Trình” làm một “nhà văn nhí” từ năm mười tuổi, với hàng loạt bài trình làng như: “Mưa ở Quảng Nạp, Tâm sự của Gà trống”, rồi: “Nỗi niềm của cây lúa” hay “ Trên rừng sa mộc” ...
Các Nhà văn Vũ Tú Nam, Tô Hoài, Phạm Hổ, Bút Ngữ, Phong Thu, Định Hải … Những người thầy từng nhiều năm gắn với lớp năng khiếu sáng tác, từng viết bài khen ngợi “Văn xuôi của các em Thái Bình” in trên Báo Văn nghệ, Báo Thái Bình, Báo Thiếu niên Tiền phong. Rồi, qua những cuộc làm việc “trực tiếp tay đôi” của Kim Chuông, của Nhà thơ Lê Bính với từng tác giả trên từng trang bản thảo vừa mới ra mắt; qua những giải thưởng Văn xuôi mà các em giành được ở các cuộc thi trong nước và quốc tế. Điều khẳng định “rờn xanh” rằng: “Văn xuôi của các em Thái Bình “bởi được đi qua, được dũa mài từ các thầy là Nhà văn qua các bài giảng về công việc bếp núc của văn chương” mà đạt tới cái Hay, cái Đẹp của rất nhiều thi pháp sáng tạo. Từ cảm xúc, hình ảnh hình tượng, đến các tình tiết, cảnh huống điển hình. Đến kết cấu chặt. Đến ý nghĩa, vừa tươi xanh, ngộ nghĩnh, vừa vươn tới sức gợi với sức đọng vang sâu” …
Trần Thu Huê. “Nữ văn sĩ nhí” là một trong những “Gương mặt văn xuôi thật quý hiếm ấy”.
Ồ. Thì ra, cô bé còn đang ngồi trên ghế nhà trường Tiểu học ở một làng quê, nơi xa mờ bên dòng Trà Lý kia với “thiên tư, thiên bẩm” là gì? Với cái gọi là năng khiếu. Cái Trời ban, Trời phú. Cái mà bị “trời đày” (như ai nói) khi vương vào “cái nghiệp văn chương” là thế, đó chăng?
Nói vậy? Xem chừng có vẻ hơi to tát quá không? Nhưng, nhìn Trần Thu Huê, thấy Huê trong cái “Thì Hiện hữu”… thì, Trần Thu Huê, đích thực là một “văn nhân” ẩn chứa đầy dư ba, lưu vực trong hồn. Một gương mặt văn nhân trong tia nắng ban mai đang thao thức tìm về ngày mới…
Với thơ, chả biết Trần Thu Huê có sáng tác hay không? Mọi người không thấy Huê công khai, trình diện. Nhưng, Huê mê thơ. Thuộc thơ. Công bố, đăng tải khá nhiều những bài thơ Huê thích.
Rõ ràng, cái trầm tích trong run rẩy, trong mơ hồ, lấp lánh; trong vệt loang luôn dồn lên tiếng sóng đã làm “Nền, làm Trụ”, đã làm nên, phút nham thạch không bình yên, luôn muốn đốt lên sức cháy trong con tim sâu nặng của cô gái bé bỏng này.
Những bài viết ban đầu của Trần Thu Huê là những bức tranh mộng mơ, tạo dựng một không gian của thiên nhiên, cảnh vật. Những đoạn văn ngắn. Những câu chuyện kể gần gũi, hồn nhiên, thú vị của cái nhìn non trẻ.
Có tới, 5 - 6 năm dài, Trần Thu Huê say mê gắn bó với “Lớp năng khiếu sáng tác văn học” vào các tháng Hè.
Với Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình, cùng với Đào Thanh Bình, khi đã bước chân vào trường Đại học, cô sinh viên này vẫn tự nguyện tìm về Hội, xin tham dự các trại Viết mùa Hè. Thì, Trần Thu Huê, có lẽ, cũng là người duy nhất, là “Môn sinh” đứng bảng đầu có thời gian dài nhất đi qua Lớp Viết Văn của Hội.
Quả tình, không đam mê, không nặng lòng, tâm huyết, chút gợn sóng văn chương phù phiếm ngày bé thơ, gió mây kia sẽ dễ bay vào khoảng không vô tăm tích.
Nhưng, Trần Thu Huê rời “Lớp Văn”, rời mái trường, bước vào “Đời lớn” với bao nhiêu quăng quật, bao nhiêu chọn lựa, bao nhiêu vẫy gọi, trước hiện thực trụi trần và không chút dễ dàng, trước “Cơm áo không đùa với khách thơ.”
Từ góc sân nhà, đất Thái Bình, quê lúa. Cô gái mỏng manh, dịu mềm như câu thơ Lục bát, đã hòa vào “Thế cuộc”, đã sống, đã tôi rèn. Đã mình tìm được chính mình. Đã khai sáng mình trước mảnh đất Phương Nam, trước đất khách quê người lạ xa, một tuổi tên khá tin yêu, khả kính, trong niềm tự hào của những chặng hành trình băng vượt.
Từ trái tim luôn mong manh và chông chênh mang bóng hình của một “khách văn nhân” “Nữ Văn sĩ” Trần Thu Huê đã trở thành một “Viên Tri Huyện”. Một Phó Chủ tịch của Tân Thạnh – Long An. Của một vùng sông nước miền Tây rộng lớn.
Có hai tầng chìm sâu trong một con người. Một tảng đá lớn của Đời thực. Của Thế giới khách thể. Của Tháng năm – Đất và Người Tân Thạnh. Với một bên là “Giọt Nước mang nguồn mạch Thi ca”. Với câu hỏi. Với, câu cần phải trả lời luôn đè nặng trên đôi vai gồng gánh, trước Trí tuệ - Tài năng và Nghị lực, mà Trần Thu Huê đã cống hiến cả một thời xuân, thời sung sức nhất của đời mình cho quê hương Tân Thạnh – Long An yêu dấu. Đã làm tốt sứ mệnh của một người cán bộ cách mạng trước công cuộc lao động, công cuộc đổi mới và dựng xây, làm đẹp giàu cho quê hương, đất nước.
Đi giữa những ngày lên đồng, xuống ruộng. Những lần tất bật, khi đến với dân, khi trở về “bản Phủ.” Rồi, những gì là xóa đói, giảm nghèo. Những gì là cách mạng xanh. Cách mạng Thông tin, Công nghiệp …Rồi, những gì là xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ …
Cứ ngỡ, “Lưng túi càn khôn” đã đeo nặng thế kia? Làm gì còn chỗ cho Thi ca len lỏi. Vậy mà, “Viên tri huyện - Nữ văn sĩ” Trần Thu Huê vẫn viết. “Tiếng đàn thi ca” từ mạch nguồn thẳm sâu vẫn lặng lẽ trào tuôn.
Khi đang là Tổng Biên tập của tờ Tạp chí Văn nghệ Thái Bình, tôi từng vui mừng đọc ngay những bài viết của Trần Thu Huê từ một miền sông nước Phương Nam xa xôi gửi về cộng tác. Tôi đã đặc cách, cho Biên tập và in ngay trên trang đầu của chuyên mục “Sáng tác mới” “Mùa Hoa điên điển” – Một Bút ký, giàu hình ảnh, thật hay, thật sinh động và cuốn hút của Thu Huê.
Tôi có nhiều lần gặp lại Thu Huê sau bốn mươi năm xa với những kỷ niệm đẹp, khi “Các Nhà văn nhí” xưa, có buổi đoàn viên, buổi tụ hội, tìm về.
Tôi đã từng theo Văn Thi sĩ Lam Châu cùng Trần Thu Huê từ miền Nam về thăm đất Hưng Hà, đất Nhà Trần dựng nghiệp. Từng đi trên lối mòn của con đê um tùm hoa dại, nơi ngã ba sông Hồng, sông Trà, sông Luộc mà Lam Châu đùa vui rằng, chúng tôi đang dẫn Huê đi “nhặt lại lời thề cỏ may” thuở trước …
Tôi vui mừng hơn, khi Trần Thu Huê rời “chốn quan trường, nhiệm sở,” đã nhanh chóng trở lại mình, trở lại cái Gốc, cái Rễ. Trở lại “cái Tôi” trong ý thức và tự thức, cái muôn thuở “Là Ta”.
“Ta là Ai? Ta là gì trên Cõi này - Nhân thê?”
Vâng. Trong “Vô tạo giả, Vô ngã, Vô thường”, Ta là “Vô ngã. Là ảo ảnh”. Nhưng, “Ta với khoảnh khắc” trong hằng hà sa số của viên cát nhỏ tấp vùi trên bãi biển trầm luân đâu phải tẻ nhạt? Đâu phải là vô vị, trắng tay ?
Trần Thu Huê đã giữ được nó, đã nắm cầm trong mong manh, trong gió mây “chút nó” ở “Những ngày tươi đẹp.” Ở những trang Truyện ký, trang “Văn Bia” chân thực, tươi xanh, khiêm nhường và giản dị mà lưu giũ, gửi về.
Đọc “Những ngày tươi đẹp” – Tập Truyện ký của Trần Thu Huê, một Nhà văn chỉ đặt cược mình vào một thể loại văn xuôi.
Điều đáng nói là, khi “Tao đàn các nhà văn Nhóm Búp” các tác giả văn xuôi thật hiếm.
Riêng Trần Huyền Tâm, Bùi Biên Linh, Bùi Thanh Huyền, Phạm Hồng Oanh, Phạm Minh Châu, Nguyễn Thị Toán, Nguyễn Diệu Liên, Bùi Lan Anh, Trương Minh Hiếu, Bùi Thái Phúc, Lê Kim Hạnh, Đỗ Thị Huệ … Những tác giả vừa có thơ và có cả văn xuôi. Thì, Vũ Huy Thông, Nguyễn Nga, Bùi Thị Ngọ, Minh Hạnh, Trần Thu Huê (là Văn xuôi,) là lực lượng đối xứng và so tài của một chuyên ngành trong văn chương Nhà Búp.
Khi Bùi Biên Linh có Tiểu thuyết “Linh miền Đông”, Trần Huyền Tâm có Tản văn “Tản mạn miền sương khói”, Bùi Thanh Huyền có Ký và Truyện ngắn: “Một vầng trăng xanh”, Phạm Hồng Oanh có Tiểu thuyết viết về các chiến sĩ An ninh đất nước.. thì, Tập Truyện Ký “Những ngày tươi đẹp” của Trần Thu Huê đã làm nên một hạt thơm, “một gia sản” trong kho tàng văn xuôi Nhà Búp một chiều kích, một vóc tầm, mang thêm vẻ đẹp mới.
Là Văn xuôi. Là thể Truyện và Ký, “Những ngày tươi đẹp” thực sự là một đòi hỏi lớn ở cả một quá trình, một năng lực của Trần Thu Huê trước sức xới cày, đào lật một thế giới khách thể.
Với bao nhiêu thông tin, tư liệu. Bao nhiêu sự kiện, cảnh huống, chuyện kể? Nếu người viết không đằm mình vào những chuyến đi? Những cuộc gặp? Những va đập, diện kiến? Làm sao có được trong mắt, trong hồn bao nhiêu ảnh hình của người, của việc? Của thiên nhiên, của núi sông kỳ lạ? Của những diễn biến chóng mặt của “Thế - Thời ?” Của cõi khói sương … Nó nằm “Ngoài Ta”. Nó đâu nhắm mắt vào mà dễ dàng hư cấu, dễ dàng vống lên, mà “bịa” được.
Trần Thu Huê đã dày công “Đi và Gặp”, đã dày công đãi cát tìm vàng. Dày công phác họa và tạo dựng những bức tranh “mãn nhãn” qua sự chiêm ngưỡng ở mắt nhìn, qua cái “đặc trưng” riêng biệt của “Hoa Sen đồng Tháp Mười”.
… “Hoa Sen. Có lẽ, không nơi nào dễ dàng bắt gặp được hoa sen như ở đây. Cây sen mọc trong ao, hồ, trong ruộng lúa hay cặp những bờ kênh, cứ nơi nào có nước lấp xấp là sen mọc, nhất là những nơi trũng thấp, nước ngập quanh năm… Dù được trồng, chăm sóc hay mọc tự nhiên, thì nơi nào sen cũng xanh tốt, cành lá vươn cao, hoa tưng bừng khoe sắc… Có những cánh đồng sen rộng bao la, nhìn ngút tầm mắt.
... Cứ vào mùa nước nổi, từ tháng 8 - 11 âm lịch là sen nở rộ. Khi những tia nắng sớm bắt đầu le lói, nụ sen như thiếu nữ thẹn thùng, e ấp mở cánh đón ánh mặt trời... Những cánh hoa từ từ hé mở, ban đầu hồng nhạt, nhưng càng về trưa, màu hồng càng đậm hơn.
... Trên nền lá xanh biếc che kín mặt nước, những cánh sen vươn cao như tô điểm sắc màu cho khung cảnh yên bình và thơ mộng, trong mênh mang của nắng gió, thoang thoảng mùi hương sen thơm ngát…
Cây sen là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca, hội họa. Bức tranh nào về hoa sen cũng gợi nên vẻ đẹp thánh thiện, tinh khôi. Những bài thơ về hoa sen bao giờ cũng đem lại cảm xúc trong lành và yên bình… Không chỉ có nét đẹp làm say lòng người, sen còn là một loài cây quý, tất cả các bộ phận của cây sen đều là vị thuốc, là nguyên liệu cho rất nhiều món ăn bổ dưỡng… Hạt sen ăn sống vừa giòn, vừa ngọt mát. Sen già thêm chút nữa, vỏ ngoài xanh đậm –gọi là sen rám, thì làm sen luộc, sen rang me, sen rang muối ớt, bùi bùi và lạ miệng… Hạt sen lột vỏ, trắng như ngọc trai, làm ra bao nhiêu món: sen sấy, sen rang bơ, cơm sen, xôi sen, chè sen, sữa sen… món nào cũng thật hấp dẫn. Ngó sen làm gỏi với thịt gà, hay nấu canh chua, muối chua, ngó sen xào cũng là món ăn khá… tốn cơm. Lá sen, tim sen là những vị thuốc quý, rất tốt cho cân bằng huyết áp, tim mạch, điều trị mỡ máu và mất ngủ. Còn một bộ phận của cây sen ít người biết đến, đó là củ sen, dùng để hầm xương, nấu chè, làm kim chi, làm mứt”…
Vâng. Một cây hoa Sen, ở đấy không chỉ là vẻ đẹp? Đấy là Trần Thu Huê với cả kiến thức xã hội, trong nghệ thuật cấy trồng, trong giá trị đời sống con người, trong văn hóa, trong thi ca đã cất lên, đã đi qua bao đời truyền tụng.
Gắn bó với Đồng Tháp Mười, mến yêu và máu thịt với quê hương “Nơi ta đến và Đất đã hóa tâm hồn”, Trần Thu Huê viết về “Mùa Hoa điên điển” cũng không chỉ làm ta say mắt mà còn làm cho ta say lòng ở một trực giác, một lối hướng ngoại và một lối cảm, lối tiếp cận và khơi gợi thế này :
… “Miền Tây xanh sắc mây trời/ Phù sa nước nổi người ơi đừng về/ Với màu điên điển say mê/ Vàng trong ánh mắt vỗ về bước chân/ ... Trót thương tình nghĩa vợ chồng/ Nên điên điển nở, cho lòng vấn vương…”
Và ... “Giống như cây sen, cây súng, điên điển là loài cây dân dã, tự nhiên, không cần trồng, không chăm bón vẫn tươi tốt, hoa nở xum xuê …
Tháng 7, tháng 8 âm lịch, khi con nước nổi đầu tiên từ thượng nguồn sông Mê Kông tràn về Đồng Tháp Mười, điên điển bắt đầu lấp ló những chùm hoa đầu tiên, rồi qua từng ngày, cả cụm điên điển từ từ trở nên vàng rực. Những chùm hoa hiền hòa, rủ xuống khiêm nhường, những cành hoa dịu dàng xếp nối nhau, nhưng màu vàng thắm thì không giấu được, nổi bật trên nền lá xanh thẫm. Điên điển không hoa nở vào sáng sớm như bao loài cây khác. Khi chiều xuống, ánh nắng nhạt dần, cánh hoa mới từ từ hé, như e ấp, như ngại ngùng, hay phải chăng, hoa muốn níu giữ lại những ánh nắng chiều tắt muộn…
Buổi chiều, cũng là lúc thích hợp đi hái bông điên điển để làm nên những món ăn mà chỉ có vào mùa nước nổi. Cá giăng lưới về, me non hái trên cây xuống, vài ba cọng rau thơm quanh nhà, thêm mớ hoa điên điển là được nồi canh chua ngon lành.
… Đẹp nhất trong tôi là hình ảnh những cô thôn nữ Nam Bộ đi hái bông hoa điên điển trong buổi chiều chỉ còn vương lại chút nắng vàng nhẹ. Trên chiếc xuồng ba lá, áo bà ba, vành nón nghiêng che khuôn mặt ửng hồng, một tay níu cành điên điển, một tay thoăn thoát hái, khẽ thả từng nắm hoa vàng tươi xuống lòng xuồng…
… Hái điển điển thì phải đứng mới chạm được tới hoa, cũng chả cần bơi xuồng, cứ níu theo cành, theo lá, di chuyển từ bụi hoa này đến bụi hoa khác… Thỉnh thoảng, một chiếc xuống máy chạy qua, sóng nước xô bờ, chiếc xuồng dập dềnh, bóng nón thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa màu lá xanh non…
… Cuối mùa nước nổi, nước lũ rút cạn dần, cũng là mùa hoa điên điển khép lại, những bông hoa kết thành từng chùm quả xanh nhạt và dần trở sang màu nâu. Quả chín, những hạt nho nhỏ, nâu nâu từ từ tách ra khỏi vỏ, buông mình rơi xuống, theo gió, theo dòng nước kênh đi xa… Rồi một lúc nào đó, hạt cây dạt vào bờ, ngủ im qua mùa khô nắng nóng, chờ đón mùa nước nổi về để lại cựa mình, nảy chồi sinh nở” …
Viết về Hoa Sen đồng Tháp, hoa Điên điển, Hoa Quỳnh Hương, về Cây cà na … Viết ở thể văn xuôi, thể Ký, người viết luôn đòi hỏi phải mở rộng “đại giác”. Phải tựa vào sức cứu cánh của một lượng thông tin luôn ắp đầy, luôn có sự khái quát, điển hình, để tránh sự sao chép thuần túy. Tránh hiện thực ngoài kia khi bước vào trang văn lại nhẹ bẫng. Lại nông choèn. Lại “thấp hơn” đời thực.
Đọc văn xuôi Trần Thu Huê, ngỡ như đang đọc những dòng thơ. Văn xuôi của Trần Thu Huê giàu thi vị, cảm xúc. Văn coi trọng cách vận động, chuyển tải. Coi trọng chất trữ tình. Coi trọng sức cuốn hút, truyền cảm. Coi trọng giá trị phản ánh. Nhưng rốt cuộc, từ phản ánh phải làm thế nào đẩy tới được, cái điểm trụ lại. Điểm dội vang. Để có được “Cái sự kiện phải lớn hơn sự kiện.” Cái nằm ở phía sau. Đó là tư tưởng, những gửi gắm, những thông điệp thâm hậu của nhà văn.
Hầu như, những Truyện ký viết về “Câu chuyện của Biển, Côn Sơn mênh mang nỗi nhớ.” Rồi, “Hòn Sơn, (Hà Tiên) Khu du lịch Phú Nghĩa.” Rồi, “Lần đầu đến với cánh đồng Chum” …
Phải nói, ở truyện ký nào, Trần Thu Huê cũng biểu hiện khả năng ôm trùm, khả năng dung chứa những tầng, những tuyến, những chiều mà ở đó là sự ngổn ngang, bề bộn của sức đào tìm, sức gom nhặt những hạt kim cương từ “cái mỏ lộ thiên.” Cái mỏ “Vũ trụ vô biên độ” của Thiên – Địa – và Người, đang ở trước mắt ta nhìn, đang từng giờ vần xoay chóng mặt.
Có điều, những mô tả, những phác thảo ngỡ như là thời sự kia, Trần Thu Huê đã “Vĩnh cửu hóa” chúng. Vĩnh cửu hóa những đề tài thời sự. Để cái Sự, cái Thời, cái Việc không bị tan nhanh đi, dễ lãng quên đi. Mà, từ nó, mà tụ về. Mà bám chặt cái giá trị, cái ý nghĩa “thiên thu”, nhờ ở sự khám phá, phát hiện, nhờ ở sức tư duy, ngẫm ngợi của Trần Thu Huê, một cây bút văn xuôi mang trong hồn dồi dào thi hứng.
Hãy đọc, Trần Thu Huê trong chuyến “thiên lý tha hương”, trong truyện ký, khi “Lần đầu đến với Cánh đồng Chum”:
… Cánh đồng Chum thuộc cao nguyên Xiêng Khoảng, tỉnh Xiêng Khoảng. Nơi chúng tôi tới tham quan là cánh đồng 1, là 1 trong 3 khu đã hoàn thành việc rà phá bom mìn do chiến tranh để lại …
… Chúng tôi đến nơi vào lúc sáng sớm, sương giăng trắng mờ phía xa xa, thảm cỏ dày mịn dưới chân còn ướt đẫm sương đêm và những hàng chum cổ như còn im lìm nằm ngủ…
Từ xa nhìn tới, từ trên cao nhìn xuống, những cái chum đá nằm ngổn ngang, không theo một thứ tự nào. Mỗi chum có một hình dạng khác nhau, có cái hơi dài, có cái tròn, cái to, cái nhỏ… Có lẽ do tác động của thiên nhiên, do bom đạn, rất nhiều chum không còn nguyên vẹn, cái đứng ngay ngắn, cái nằm nghiêng, cái nằm xoài, cái chôn chân dưới đất, cái chồng lên những tảng đá… Cao nguyên rộng mênh mông, có nơi chum dồn lại theo từng cụm, có nơi chum nằm rải rác, tạo nên cảnh sắc phong phú, đa dạng…
… Trong tổng cộng: 1969 chum, chỉ một cái có nắp đậy. Sương tan dần, nắng chiếu vàng, những tán cây như xanh hơn. Chúng tôi rất thích thú khi phát hiện ra những thân cây cổ thụ ở đây như cũng có sự sắp đặt. Nơi có nhiều chum cụm lại là có những thân cây xanh mướt, xòe tán rộng như che mưa, che nắng cho chum cổ, nhìn từ xa lại, mỗi cây như một cái ô đang mở hết cỡ. Còn nơi thảm cỏ xanh ngắt, không có chum, chỉ có một thân cây thẳng tắp, cành lá vươn cao, chúng tôi gọi là cây cô đơn. Ngay bên gốc cây cô đơn là mấy hố bom, trải qua hơn 50 năm, hố bom giờ đây trở thành hồ nước nhỏ, cỏ mọc bên miệng hố xanh mát, nước trong vắt in bóng mây trời.
Tôi tựa lưng vào thân cây, nghe như cây đang lay động. Cây ơi, có phải ngày xưa, nơi đây là cả một rừng cây tươi tốt, vì vậy người xưa đã chọn nơi đất lành này để đặt chum cổ? Chiến tranh, bom đạn đã san phẳng tất cả, để lại những hố bom, để lại cây cô đơn giữa thảo nguyên đầy nắng, là để nhắc mọi người về sự ác liệt và tàn khốc của chiến tranh, để trân quý hơn cuộc sống bình yên ta đang có được, vì “chiến tranh không phải một trò đùa”.
… Cánh đồng Chum với bao cảm xúc về quá khứ và hiện tại, bí ẩn và thực tế, thô ráp và lãng mạn, về những điều như cổ tích mà đầy mới mẻ đan xen, nhất là những điều rất thiêng liêng đang có ở nơi đây…
Bên những trang viết về cánh đồng Chum, Trần Thu Huê còn có những Truyện ký rất hay về những kỷ niệm, những hồi ức đời mình. Những trường, những lớp. Những người thầy. Những bạn bầu trang lứa trong “Lò luyện văn chương” một thuở …
Thật khó mà trích dẫn từng truyện, từng cảm nhận khá mông lung, thầm sâu, tinh tế trong góc hồn khá vang xa và lay động của nhà văn.
Điều còn lưu mãi trong hương vị, trong dư ba khi gặp Trần Thu Huê, gặp những trang văn xuôi, trang truyện ký “Những ngày tươi đẹp” … làm ta thêm ngộ ra, điều ai kia, từng nghìn xưa, đã nói. “Văn là Người.” Văn học là Nhân học, vậy.
Và. Trần Thu Huê – (Không nghi ngờ gì nữa) – Một gương mặt văn nhân lung linh, sóng sánh. Một giọng điệu văn chương thật tinh tế, đượm nồng. Một chiều sâu lặng lẽ, thấm loang và lay động.
Một giá trị nhân văn, nhân ái đã và đang góp vào cái “Giá trị hữu ích” từ “Những ngày tươi đẹp” từ những trang văn chương trước “dấu nối”: “Cuộc Đời”.
Sau “Những ngày tươi đẹp” điều người đọc vui mừng, có thêm tin yêu và mong chờ hơn nữa ở Trần Thu Huê, ở sự đắp dầy và nối dài những trang văn, dọc dặm dài của công cuộc lao động và sáng tạo nghệ thuật.
Hải Phòng, Những ngày Thu, 2025
K.C



