
- Lý luận - Phê bình

Triết lý từ những điều giản dị
Thứ sáu - 21/11/2025 16:02

(Ảnh: Pixabay)
TRIẾT LÝ TỪ NHỮNG ĐIỀU GIẢN DỊ
Cuộc sống hiện đại luôn hối hả, vội vã với những kế hoạch, những dự định và muôn vàn những lo toan, bận rộn nên đôi khi ta cũng vô tình với nhừng gì tồn tại ngay bên ta, những thứ tưởng chừng như đơn giản nhưng chỉ cần để tâm một chút ta sẽ thấy muôn điều thú vị. Có những điều giản dị, gần gũi mà thấm thía, đầy tính triết lý sâu sắc. Chỉ cần thi thoảng, ta dành cho mình những khoảng lặng để suy ngẫm và chiêm nghiệm ta sẽ thấy cuộc sống thật đáng yêu!. Xin trân trọng giới thiệu một bài thơ của nhà thơ - PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh sau đây…
Bài thơ: Ở ĐÂY
(Trích trong tập thơ “ Thầm” – Nguyễn Đức Hạnh)
Ở đây có một cánh đồng
Giục người gieo hạt mà không sỗ sàng
Ở đây có hạt lúa vàng
Nằm trong bồ chật mơ màng mà thơm
Ở đây có một cây rơm
Mùa Thu ủ nắng vàng ươm góc vườn
Ở đây có một nỗi buồn
Vỡ như sương sớm, lá luôn dỗ dành
Người dưng không đến đã đành
Người thân không đến ngỡ thành người dưng
Đường đã nhỏ lại gập ghềnh
Mấy viên đá cuội giật mình mà lăn
Gà nhà ai lạc vào sân
Gáy lên một tiếng tần ngần rồi đi
Bụi sim ngồi niệm vô vi
Dưới ao hoa súng chớp mi ghẹo người
Nửa làng nửa phố nhà tôi
Nửa buồn phố xá nửa vui xóm làng
Ở đây Đom đóm dịu dàng
Nửa đêm thắp sáng nửa bàn tay run.
Bình thơ:
Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở làng quê Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ hẳn đều đã từng có những giây phút chiêm ngưỡng vẻ đẹp mộc mạc giản dị đặc trưng của làng quê. Có những buổi hoàng hôn cứ như vỡ ra từ vòm trời nào đó của tuổi thơ. Ở đó có những dải gió đồng mát lộng, có tiếng dế gáy ri ri, vài ngọn khói lam từ bếp nhà ai vương theo lối nhỏ... Chỉ đơn sơ vậy thôi mà dưới con mắt của một người, những điều tưởng như giản dị thường ngày ấy lại hóa thành kỳ diệu với những chiều sâu ý nghĩa sâu sắc!
Nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh là một người như thế! Ông sinh ra ở một vùng quê bình dị thuộc tỉnh Hưng Yên. Có lẽ ít ai làm được như ông - viết về ruộng đồng, hạt lúa, bụi sim, con đom đóm… những thứ hết sức bình thường mà không đơn điệu nhàm chán; cũng không sa vào sướt mướt hoài niệm, cũng chẳng khô cứng giảng giải đạo đức. Thơ ông như một câu chuyện tếu táo mà ta thường được nghe. Mới thoạt nghe thì buồn cười, nhưng nghĩ kỹ lại thấy rưng rưng bởi hàm sâu ý nghĩa.
Hãy thử bắt đầu từ “ Cánh Đồng”, nơi mẹ cha ta, chị em ta hàng ngày lui tới làm lụng, cấy trồng để cho ra mùa màng hoa trái. Trong thơ Nguyễn Đức Hạnh, “Cánh Đồng” không phải là thứ vô tri, vô cảm mà như một thực thể có tâm hồn, biết dịu dàng hối thúc:
“Giục người gieo hạt mà không sỗ sàng”
Cái câu nghe cứ như đùa ấy lại hóa ra thấm thía lạ. Hai câu thơ mở ra một không gian thơ giàu sức gợi. Cánh đồng là hình ảnh quen thuộc của làng quê, biểu tượng của sự sống và niềm hi vọng. Cánh đồng ấy không chỉ chờ hạt giống để nảy mầm, mà còn như một miền đất tâm hồn, sẵn sàng đón nhận tình yêu, niềm tin và khát vọng của con người. Từ “giục” thường gợi sự thúc bách, nhưng ở đây lại đi cùng cụm từ phủ định “mà không sỗ sàng”, khiến nhịp thơ trở nên tinh tế, nhẹ nhàng đến lạ! Đó là lời mời gọi âm thầm mà tha thiết của thiên nhiên, khác hẳn với sự vội vã, ồn ào thường thấy trong đời sống. Hai câu thơ vì thế vừa toát lên vẻ hiền hòa, bao dung của đất đai, vừa khơi dậy trong lòng người niềm cảm hứng gieo trồng, sáng tạo và kiến tạo cuộc sống. Ẩn sâu trong hình ảnh ấy là triết lý nhân văn: sự sống và thiên nhiên luôn kiên nhẫn, chờ đợi bàn tay vun bồi của con người, để từ đó sinh sôi, tái sinh và nuôi dưỡng những giá trị bền vững.
Cùng với hình ảnh “ cánh đồng” là “ hạt lúa”:
“Ở đây có hạt lúa vàng
Nằm trong bồ chật mơ màng mà thơm”
Hạt lúa vàng nằm trong bồ chật, hình ảnh ấy vừa cụ thể vừa gợi trường liên tưởng tới những con người từng dãi dầu mưa nắng, luôn biết vượt lên trên hoàn cảnh mà sống. Cái “ chật chội” ấy cũng là niềm hạnh phúc giản dị khi ta thấy ấm lòng. Có khi chỉ cần một cử chỉ, một ánh mắt, một ứng xử đẹp cũng khiến ta vui. Hạt lúa trong “ bồ chật” có lẽ cũng cảm nhận được hạnh phúc khi “ bồ chật” mà không cảm thấy tù túng, bức bách mà lại là nơi ủ ấm cho “ hạt thơm” bền bỉ giữ gìn sự sống quý giá, bất diệt, trường tồn…
Cùng với “ Hạt Lúa” còn có “ Cây Rơm” được nhà thơ khắc họa một cách cụ thể:
“Ở đây có một cây rơm
Mùa thu ủ nắng vàng ươm góc vườn.”
Ở đây, cây rơm không chỉ là để nhóm lửa, để giữ ấm, mà còn là nơi “ủ nắng vàng” cho “góc vườn”. “Cây Rơm” thành ra có hồn, có hơi ấm và sắc màu mùa thu, trở thành một ký ức đẹp của làng quê Việt. Và nếu để ý, trong “Cây Rơm” ấy còn ẩn một bài học: có những thứ tưởng bỏ đi, vụn vặt lại có thể ủ ấm và tỏa sáng. Con người cũng vậy, đừng coi thường những điều nhỏ nhặt, vì đôi khi chính những điều tưởng như nhỏ nhặt ấy mới là nơi “giữ lửa”. Một tấm áo, một bát cơm hay chỉ là một lời động viên khích lệ đúng lúc cũng khiến ta ấm lòng và có động lực mạnh mẽ để vươn lên trong cuộc sống!
Thơ Nguyễn Đức Hạnh hay ở chỗ đó: cái triết lý được bọc trong những hình ảnh bình dân, quê mùa, hết sức giản dị khiến người ta vừa cười vừa gật gù: “À, đúng thật thế!”.
“Ở đây có một nỗi buồn
Vỡ như sương sớm lá luôn dỗ dành”
Đọc câu thơ này, ta bỗng bật cười: buồn mà cũng “vỡ như sương”! Nghe qua thấy ngộ nghĩnh, nhưng càng ngẫm càng thấm. Nỗi buồn mong manh như sương, nắng lên là tan. Vậy mà con người nhiều khi cứ ôm chặt nỗi buồn, tưởng nó to lớn lắm. Nguyễn Đức Hạnh nhẹ nhàng nhắc: buồn thì cũng chỉ như sương thôi, đừng làm quá lên, kẻo tự làm khổ mình…
Nhưng điều dí dỏm nhất lại nằm ở hai câu sau:
“Người dưng không đến đã đành
Người thân không đến ngỡ thành người dưng.”
Ôi chao, một cú lật hóm hỉnh mà chua xót! Thì ra căn nguyên của nỗi buồn là ở đây. Người dưng không đến thì cũng chẳng sao, nhưng người thân mà không đến thì hóa ra lại thành xa lạ. Đọc mà thấy như chính mình đâu đó từng trải qua: có những người bạn, người thân, khi cần thì chẳng thấy đâu, để rồi khi gặp lại, cái khoảng cách vô hình đã biến ta thành người dưng. Đó chẳng phải triết lý về sự vô thường của tình cảm con người đó sao? Nhưng thay vì nói theo kiểu triết gia thâm thúy kết tội, thay vì những lời than phiền, trách cứ, Nguyễn Đức Hạnh chỉ nhẹ nhàng buông một câu, nghe vừa buồn cười, vừa thấm…
“Đường đá nhỏ lại gập ghềnh
Mấy viên đá cuội giật mình mà lăn.”
Cuộc đời cũng vậy thôi - gập ghềnh, chông chênh trên bước đường đời, con người có khi cũng “ giật mình mà lăn” như những viên “ đá cuội”. Có những khi ta lâm vào những tình huống trớ trêu, mất phương hướng đành cứ phó mặc cuộc đời định đoạt để nó “lăn” đi vô định… Nhưng lăn xong thì cũng cũng phải có điểm dừng. Điều đáng nói là tác giả dạy ta luôn lạc quan, không bi lụy, không than vãn, mà luôn nhìn sự việc bằng cái nhìn bao dung, hài hước. Con gà biết mình đã “ lạc” vào sân nhà khác là sai nên cũng biết ăn năn bằng một tiếng gáy rồi mới “ tần ngần” bước đi. Nhà thơ luôn biết hóa giải những oái oăm trong cuộc sống một cách nhẹ nhõm bằng giọng thơ hài hước, dí dỏm…
Cuộc đời có đôi lúc rối ren, bế tắc. Hãy học cách “ngồi” mà an nhiên, mà sám hối. Hình ảnh “Bụi sim ngồi niệm vô vi” là một cách nhân hóa vừa hóm hỉnh, vừa sâu sắc: Một bụi cây vô tri cũng có thể dạy ta cách ngồi yên, thở đều tâm niệm... Phải chăng đó chính là tinh thần “thiền” giữa đời thường? Bụi sim chẳng cần nở rộ để khoe, chẳng tranh hương cùng hoa hồng, chẳng đua sắc cùng hoa cúc, chỉ lặng lẽ tím một góc trời. Người bây giờ, nhất là ở phố, thì khác: uống cà phê cũng phải check-in, đi du lịch cũng phải quay clip, bữa cơm giản dị cũng bày biện cho đẹp hình để “ trưng” lên “ Phây”… Mất thời gian vô ích! Thấy bụi sim “ngồi niệm vô vi”, ta mới chợt giật mình. Hóa ra, mình đã tiêu tốn biết bao thời gian cho những trò vô bổ theo đám đông đua chen. Có khi triết lý lớn nhất lại nằm trong bụi sim tím nhỏ kia: cứ bình thường, tự nhiên giữa đời thực, đã là đủ đẹp!
Thế giới trong thơ Nguyễn Đức Hạnh không phải trắng đen rạch ròi, mà luôn có cái lưng chừng:
“Nửa làng nửa phố nhà tôi
Nửa buồn phố xá, nửa vui xóm làng”
“Nửa làng nửa phố” là hình ảnh bao vùng quê đang đô thị hóa. Nhà thì vẫn mái ngói, hàng rào tre, dâm bụt nhưng ngoài cổng, ngoài sân , trong nhà đã có ô tô, xe máy, điện thoại, mạng xã hội… Người ta vừa nhớ ruộng đồng, vừa mê phố xá. Đó là hiện thực của đời sống hôm nay. Nhưng nhìn ở góc triết lý, thì đây còn là lời nhắc: đời người vốn dĩ luôn nửa này nửa nọ. Nửa vui, nửa buồn. Nửa muốn an phận, nửa muốn bứt phá. Nửa truyền thống, nửa hiện đại... Chúng ta chẳng bao giờ “trọn vẹn” trong cảm xúc, và có lẽ cũng chẳng cần phải thế. Chính sự lưng chừng ấy mới tạo nên cái muôn màu của đời sống.
Hình ảnh kết thúc thật đẹp!
“Ở đây đom đóm dịu dàng
Nửa đêm thắp sáng nửa bàn tay run.”
Đom đóm là ánh sáng mong manh, bé nhỏ. Ngày bé, ai chẳng từng chạy theo đom đóm ngoài đồng, lấy lọ thủy tinh bắt rồi nâng niu như kho báu. Đêm tối nhờ vậy mà lung linh, thơ ấu nhờ vậy mà dịu dàng, đáng nhớ! Còn bây giờ, ánh sáng trong đêm đến từ màn hình điện thoại sáng rực, nhưng lại lạnh lẽo. Đom đóm khi xưa dịu dàng“thắp sáng” bàn tay ta ấm áp, còn giờ đây ánh sáng điện thoại trong tay chỉ làm cho tay ta lạnh đi, run lên cùng đôi mắt mỏi mệt. Nguyễn Đức Hạnh không nói thẳng điều này, nhưng đọc thơ ông, ta chợt thấy nhớ ánh sáng bé nhỏ kia biết bao. Triết lý giản dị: cái mong manh đôi khi lại đem đến sự an ủi nhiều hơn cả ánh sáng chói gắt! Một sự dí dỏm mà chạm đến tận đáy lòng.
Đọc xong “Ở đây…”, ta không thấy một triết gia khô khan đang thuyết giảng đạo lý, mà thấy một người bạn làng quê vừa nhẩn nha kể chuyện, vừa hóm hỉnh pha trò, vừa thủ thỉ tâm sự. Ẩn sau cánh đồng, hạt lúa, cây rơm, bụi sim, con đường gập ghềnh, là cả một thế giới nhân sinh quan: sống thong dong, lạc quan, buồn rồi sẽ tan, đời thì đôi khi “nửa này nửa nọ”, và chỉ cần một ánh sáng nhỏ thôi cũng đã là kỳ diệu nếu ta biết trân trọng!
Vậy nên, “ở đây” đâu chỉ là một làng quê, một góc vườn. “Ở đây” chính là nơi ta dừng chân, lắng lòng, mỉm cười, và nhận ra: cuộc sống tuy gập ghềnh nhưng vẫn đáng yêu, bởi nó luôn có hạt lúa vàng, có bụi sim vô vi, có nỗi buồn mong manh, và có đom đóm dịu dàng trong đêm tối… Những thứ bình dị mà thân thuộc nhưng lại vô cùng ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi con người.
Điều thú vị nhất trong thơ Nguyễn Đức Hạnh là sự tung tẩy dí dỏm của ngôn từ. Ông không triết lý bằng giọng kẻ cả, cũng không sáo ngữ. Ông triết lý bằng nụ cười, bằng cái lắc đầu hiền lành, bằng một ánh nhìn khẽ nghiêng đầy ẩn ý. Cái tài của ông là biến cái sâu xa thành điều gần gũi, biến triết học thành chuyện đời thường. Đọc thơ ông, ta không thấy “ngôn ngữ bác học”, mà chỉ thấy tiếng của người nông dân, của bác hàng xóm, của một cụ già ngồi bên hiên uống nước chè. Chính cái chất mộc ấy lại khiến ta tin. Triết lý ở đây không phải từ sách, mà từ đất, từ mồ hôi, từ hạt lúa, từ con dế… Triết lý ấy vì vậy mà sống động, mà dạt dào sức sống.
Trong “Kỷ nguyên số” hiện nay, thời kỳ mà công nghệ số, dữ liệu và Internet trở thành nền tảng trung tâm cho mọi hoạt động của con người, con người đôi khi chóng mặt bởi những kế hoạch, thời hạn và chỉ tiêu…, thơ ông giống như một ngụm nước mưa rơi từ mái hiên xuống chum, mát lành, bất ngờ... Ta uống xong thấy khát đã dịu, lòng cũng nhẹ đi. Người thành phố hôm nay, giữa ồn ào xe cộ, đọc thơ ông, bỗng nhớ về làng quê, nơi có cánh đồng lúa chín, có ánh đom đóm dịu dàng, có nỗi buồn chỉ thoáng qua rồi tan như sương sớm…cũng thấy lòng nhẹ nhõm… Hóa ra, cái an nhiên ta hằng tìm kiếm bấy lâu chẳng đâu xa, nó tồn tại ở chính “ “cách nhìn” của ta trước cuộc sống!
Nếu có ai hỏi, bài thơ của Nguyễn Đức Hạnh dạy gì cho đời, tôi sẽ cười: “Ông ấy đâu có dạy. Ông ấy chỉ chỉ cho ta thấy, “ở đây” thôi, mọi thứ đã đủ rồi. Chính cái sự “ở đây” ấy là thông điệp: đừng đi tìm hạnh phúc ở những chân trời xa lạ, hãy học cách “gieo hạt” ngay “Ở đây” thôi, thế là đời đã đẹp rồi!
Nguyễn Đức Hạnh giống như một người bạn hóm hỉnh, vừa nháy mắt với ta, vừa lặng lẽ trao một cuốn sách triết học gói trong tàu lá chuối vườn nhà. Ta bật cười vì cái nháy mắt ấy, nhưng khi mở cuốn sách ra, ta bỗng thấy mình đã bước vào một khu vườn hiền hòa, nơi từng bông sim, từng giọt sương, từng cánh đom đóm, đều đang thì thầm về cuộc sống hôm nay…
Tác giả: Nhất Chi Mai



