• dau-title
  • Lý luận - Phê bình
  • cuoi-title

Người thơ Kim Chuông

Thứ ba - 11/03/2025 09:56





(Ảnh: Nhà thơ Kim Chuông)





NGƯỜI THƠ KIM CHUÔNG

(Bùi Đại Dũng)


Qua những người bạn quê gốc Thái Bình từng gắn bó với các khoá đào tạo, bồi dưỡng thiếu nhi có năng khiếu sáng tác văn học “Búp trên cành-Thái Bình” giai đoạn 1976-1990, tôi mới được biết đến Nhà thơ Kim Chuông, được trao đổi và được ông viết lời giới thiệu cho một số cuốn sách đã xuất bản. Từ mối quan hệ và những gì được học hỏi từ ông, tôi gọi ông là Thầy. 


Cùng với công việc là phóng viên quân đội, sau làm Tổng Biên tập Tạp chí Nghề Báo Thái Bình, Thầy đã kết tụ được một khối lượng đáng kể những sản phẩm tinh thần của riêng mình, trong đó có thể kể đến là hơn hai chục tập thơ, trên một chục tập văn xuôi và tiểu luận; cùng với các giải thưởng của Tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam và của một số tổ chức khác.


Với vai trò Nhà báo quân đội, nhà Biên tập, Thầy đã trải qua khốc liệt của chiến tranh, gian khổ của cuộc sống trong quá trình đổi mới. Đặc biệt hơn cả, Thầy lại có vai trò là người tuyển chọn, thuyết phục, tạo dựng các khóa đào tạo, bồi dưỡng thiếu nhi có năng khiếu sáng tác văn học “Búp trên cành-Thái Bình”, làm Chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy nhiều lớp “Búp” trong những năm 1976 – 1985. Có lẽ đây là một trong những hoạt động đáng quý, hiếm hoi giúp khích lệ nuôi dưỡng những mầm non tâm hồn và tài năng cho thế hệ sau mà không nhiều nhà thơ, nhà hoạt động văn hoá khác làm được trong thời kỳ ấy. 


Đến nay, những học trò tí hon của Thầy ngày ấy đã trưởng thành và có vị thế trong xã hội; ở Thầy lại xuất hiện một vai trò còn đặc biệt hơn, đó là Người Tri kỷ, là bạn vong niên trao đổi, tâm sự, tiếp tục góp ý uốn nắn cho cho những người bạn vong niên của mình trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Thầy là “Bà đỡ” mát tay cho rất nhiều các tác phẩm thơ ca của Nhóm “Nhà Búp” với những bài viết giới thiệu đồng cảm sâu sắc mà tinh tế, phân tích những khía cạnh đặc thù trong hồn thơ của mỗi tác phẩm, tiếp tục khích lệ những tâm hồn thi ca tách khỏi sự bận rộn đời thường để cất lên tiếng lòng của mình, để cho ra đời những tác phẩm mang dấu ấn của cuộc đời họ.


Đã có rất nhiều đồng nghiệp, bạn bè, học trò viết về Thầy. Riêng tôi chỉ xin phép đề cập đến Thầy, đó là một Người Thơ như sinh ra đã là như vậy và là một hồn thơ nhậy cảm như tia sáng giọt sương. Tôi xin không dùng danh hiệu “Nhà thơ” mà là “Người thơ” để nói về Thầy bởi vì có nhiều “nhà thơ” nhưng không chắc đã phải là “Người thơ”. Nhưng đã là “Người thơ” thì chắc hẳn phải là nhà thơ trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống, lứa tuổi hoặc danh hiệu nào.


NHỮNG KÝ HOẠ TỰ THÂN


Bạn tôi bảo có những chủ đề, Thầy viết cả trăm bài, như về Mùa Xuân. Riêng tôi thấy số lượng những bài nói về lòng mình, về “Tôi” của Thầy cũng trùng trùng điệp điệp. Có những câu thơ hé lộ chân dung Thầy như những nét chấm phá đơn sơ mà là thần bút về tâm hồn một Người Thơ - Kim Chuông. 


Người thơ vốn không biết mình là ai, mình khác mọi người ra sao, mình có quan hệ với muôn vạn cỏ cây thế nào… và nghiệp thơ là cuộc hành trình đi tìm mình đấy.


“Hành trình với biển xa sâu

Con thuyền tôi đấy, bắt đầu từ Tôi

Đi trong ngàn dặm đất trời  

Tôi tìm cho được chính Tôi - Là gì?”

(Tự bạch)


Trong bài “Tự bạch”, Người thơ viết về cái làm nên hồn thơ, trong thời khắc chợt nhận ra, nó lung linh và đẹp đẽ đến nỗi Người thơ cũng hoảng sợ:


“Lung linh quá, tôi sợ niềm sâu kín

sợ dào lên tiếng sóng ngả nghiêng thuyền”

 (Tự bạch)


Cái lớn lao đẹp đẽ này không thể gọi được bằng một cái tên, chỉ có thể nhìn nó từ nhiều hướng với nhiều tầm kích khác nhau. Nó tinh tế đến mức không thể nhìn bằng mắt, mà chỉ có thể nhìn bằng tâm. Người thơ nói về hồn thơ, đó là thứ rất riêng, rất thiêng liêng một cách dịu dàng âm yếm:


“Trong vũ trụ vô cùng rộng lớn

có con đường in bước lối riêng tôi

con đường ấy tôi nhặt về giọt nắng

giọt mưa ơi, se sẽ đọng bên lòng

qua đãi lọc, nâng niu, cầm nắm

cái Có nào sau cái CÓ là KHÔNG?”

(Lại viết về tôi)


Người thơ nói về hồn thơ mà đã đạt “Đạo”, chạm tới cái “Có/Không” trong Phật pháp. Cái rung cảm sâu lắng của hồn thơ ở chiều này là riêng biệt, nhưng ở chiều kia đã hoà vào vũ trụ mênh mông lồng lộng rồi. Những câu thơ, bài thơ là những “giọt nắng”, “giọt mưa” mà Người thơ nâng niu, lọc được, cầm nắm được, mang được về từ cõi mênh mông đó.


Hồn thơ của Người thơ bắt nguồn từ “chút nợ nắng trời”. Không biết từ đâu, có lẽ cũng giống như cách lý giải “trời cho làm thơ” của Đoàn Thị Tảo. Với năng lực nhận thấy cõi “lung linh” mà Trời cho ấy, nhận ra được “nắng trời” kết tinh vào hạt thóc, hạt thóc lại thành sữa thành cơm với biết bao mồ hôi, nước mắt và tình thương; cho nên Người thơ nợ trời vì được trao truyền năng lực, nợ đời vì công lao và tình thương. 

 

“Tôi mang nợ chút nắng trời

Vùi trong hạt thóc vàng nơi đồng nhà”

(Tự thú)


Phải chăng Người thơ nhận ra nghiệp nợ đa đoan của mình như vậy để rồi tự lý giải nghiệp làm thơ là cách trả nợ đời, trả nợ người:


“Một lần ta nợ bóng cây

Rủ em làm quả trong này nở ra”

“Một lần ta nợ tay cầm

Đi qua nửa nhịp cầu gần rồi thôi”

“Một lần ta nợ... và cho

Bờ đau bến lở... con đò phụ sông”

“Trả rồi... lại nợ là ta

Nợ rồi... lại trả... Nghèo à... lại vay”

(Nợ)


Người thơ còn mắc một cái nợ sâu dày – nợ cái Đẹp. Món nợ “liên hồi kỳ trận” này có lẽ là phần tảng băng chìm của tổng thể Người thơ, là cái cốt lõi của tấm tình yêu và say một cách hồn nhiên:


“Em xinh, em đẹp dường này

hình như thỉnh thoảng tôi hay bỏ nhà”

“nỗi buồn trong mắt người ta

tôi giong bão tố phong ba về mình”

(Từ duyên nợ với nàng thơ) 


Và: 


“Đùng đùng tôi bỏ nhà đi

thầy u cứ ngỡ việc gì lớn lao

thực tình thì có gì đâu

tôi đi tìm một mái đầu hương chanh”

(Và lại viết về tôi nữa)


Rồi:


“hồn tôi cứ bỏ tôi hoài

cái trong tôi lại ở ngoài tôi đây”

(Từ duyên nợ với nàng thơ)


Một lần nữa, thiện tri kiến của Người thơ đã bộc lộ một cách vi diệu: “cái trong tôi lại ở ngoài tôi đây”. Hồn thơ không phải là thứ hãn hữu trong Người thơ, đó là một dạng “Kiến Đại” bao trùm khắp không gian mà chẳng có ngăn cách giữa trong và ngoài bản thể một con người. Người thơ đã vượt ra khỏi bản thân mình, cũng có đôi chút vật vã để nhận được ra rằng “gương mặt thật” của mình cũng phản chiếu bao la tất cả bên ngoài:


“Đã say thì tát cạn mình

xem gương mặt thật, ta hình dáng chi

ở đời em ạ, lắm khi

mình đây, mà biết được gì mình đây

ta mang trăm mảnh ghép này

trong ta, với phía trời đày: ngoài ta”

(Tát biển)


Người thơ bộc bạch thêm về mình một cách giản dị, chân thành… Cái hồn thơ của Người thơ, nó mong manh, lang bạt; cái mong manh đạt tới ngưỡng giữa “có” và “không”. Cái mong manh ấy lại bị giằng xé xung đột giữa nợ ơn đời, nợ tình người:


“Tôi à, nào có gì cơ

ai hẹn là đến, ai chờ là đi

một lời em rất thầm thì

đủ cho tôi bỏ nhà đi nửa đời”

(Và lại viết về tôi)


Người thơ… thơ đến mức chẳng còn tồn tại “nhà thơ” hay cái “Tôi” nào nữa. Người thơ đã biến thành một làn chất liệu vi diệu, được gọi là “say đắm” mà thôi:


“tôi đã đến lâu đài em chiều gió

tôi chẳng biết còn tôi giây phút đó

phút thương nhau mặt đất hóa bầu trời

chẳng còn biết được gì để biết

trên đời này say đắm thế, là tôi!”

(Về một loài hoa)

 

Thả mình theo cái yêu và say, Người thơ vượt thoát mọi rào cản, mà rào cản lớn nhất có lẽ là chính mình, để rồi tìm được mình dưới một hình hài khác, một chất liệu khác, một chiều không gian khác:


“nếu không vỡ một lần tìm

ngọc trai kia mãi lặn chìm đáy khơi”

(Ta xin làm cột thu lôi)


Cái mạnh mẽ đến mức “liều lĩnh” dấn thân mới có thể làm cho Người thơ nhận ra được chính mình. Cách sống ấy tự hồn thơ nó thúc đẩy, nó đặt Người thơ trước những thách thức sợ hãi, nó đe doạ đau khổ, rồi nó trả lại thành tựu linh thiêng của sự nhận thức. Sự dấn thân ấy bộc lộ trong bài Thị Màu:


“Thị Màu xưa của ta ơi

Tại trời cao, tại ông trời trước tiên”

“Bảo Màu sống khác đi a?

Màu mà sống khác không ra Thị Màu”.

(Thị Màu)


Dường như viết cho Thị Màu, nhưng là Người thơ viết cho mình. Cái LÝ nó bảo tôi sai, mà TÌNH lại bảo đúng hai ba lần. Người thơ tự biện hộ cho mình cái duyên trời trót sinh ra đã là như thế. Nếu không như thế thì còn gì là Người thơ nữa.


Có lẽ Người thơ cũng có 72 phép thần thông như Tôn Ngộ Không, rồi lại biết “cân đẩu vân” một cái đã vượt 10 vạn 8 nghìn dặm. Rồi một ngày, Người thơ nhận thấy mình vẫn ở trong Phật tính, mình hoà vào Phật tính của vạn vật; không còn gì khác giữa mình và vạn vật:


“Kìa, hoa nở hay lòng ta sẵn có

một hương thơm từ trong ta bay ra 

Ta là gì trong cái-khác-ta?...”

(Diện kiến)


Bao la ư, vô biên ư? Chẳng qua cũng không ngoài tâm mình. Một lần nữa, có thể thấy được hồn thơ của Người thơ lại bộc lộ chiều kích lớn lao khi chạm tới những uyên áo của Phật Đạo khi nói về lòng mình, lòng người; và khi nhìn nhận sự viên thông giữa cái “ngoài” với cái “trong ta”; Cái “có ta” và cái “không ta”:


“Cơn bão xoáy tràn qua chiều dữ dội

đất ngả nghiêng trời ngả nghiêng trời

chấn động lớn dồn xô trong giông tố

tĩnh tại ư? có thể chỉ lòng người!”

(Bão táp)


Cũng như:


 “Trong biến đổi vô cùng, ơi tia nắng

Cây tách mầm. Cành bật dậy sắc hoa”

“Mọi tồn tại đều đi qua hai phía

Nơi chính mình. Và nơi phía-không-ta!”

(Mùa Xuân)


Thật tuyệt diệu làm sao, khi suy ngẫm về bông hoa, Người thơ chạm tới luận lý sâu xa của Phật Pháp về luân hồi nhân quả:


“Hoa không rụng xuống đất này

Thì sao cành biếc dâng đầy quả non

Hoa rơi, hoa cũng vẫn còn

Từ hoa đến quả vòng tròn tái sinh”

(Hoa)


Và cụ thể hơn, với Sen, một biểu tượng của Phật tính, Người thơ nhận ra rằng:


“Mới gần sen một lần thôi

Hình như ta đã khác rồi, ta xưa”

(Bên Sen hoa đã thành nôi ru mình)


Hiểu thêm về mình, Người thơ nhận thấy được đó cũng là hiểu thêm về đời. Hiểu thêm về đời, tưởng chừng như đi xa chính mình; nhưng không! Đó lại là hiểu ta ở cái ngoài ta đó. Phật pháp có câu ngụ ý rằng: “Tâm là cảnh, cảnh là tâm”. Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy Trần Nhân Tông cũng nói như sau:


“Nhật nhật đối cảnh thời

Cảnh cảnh tòng tâm xuất”

(Tuệ Trung Thượng Sĩ)


Nghĩa là: “Ngày ngày đối diện với các cảnh hiện, tất cả các cảnh ấy đều từ tâm sinh ra”. Cái tâm của Người thơ nó là như vậy, nên mới thấy như vậy. Nguyễn Du cũng từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” thì nhận thức ấy cũng vang vọng âm hưởng của Phật Đạo. 


Cái liên hệ giữa mình và vạn vật, giữa “trong” và “ngoài” mình đối với Người thơ chính là “nỗi niềm”, là cảm xúc, là còn năng lực rung động. Không còn cái đó, chắc hẳn không chỉ Người thơ mà bất kỳ chúng sinh nào cũng chỉ còn là một cái thân xác cô đơn khô cứng giữa đất trời:


“Mỗi ngày ta đến gần ta

Mỗi ngày ta lại dần xa chính mình”

“Ai lo nghèo bạc, nghèo tiền

Ta lo nghèo nhất nỗi niềm cạn khô”.

(Vốn đời)


Nỗi lo này đâu đó thoáng hiện trong “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa”. Nhưng nhà thơ Xuân Quỳnh sợ cái kết quả “không làm thơ nữa”; còn Người thơ sợ điều căn cốt, cái “nhân” của tiến trình nghiệp thơ, là “nỗi niềm”, là vốn đời mình cạn khô đi. Thực ra đây không là nỗi “sợ” mà chỉ là niềm tâm sự mà Người thơ muốn gửi gắm đến bạn bè, bạn đọc rằng cái “vốn đời” của mình vẫn dâng đầy và phơi phới mênh mông trong từng ngày, từng khắc. Kính chúc Người thơ Kim Chuông, Nhà báo, Nhà biên tập, Nhà thơ; Người thầy, Người bạn vong niên của Nhà Búp, của chúng em luôn tươi trẻ, hừng hực tấm tình thơ với chiều tâm tưởng không ngừng mở rộng tới chiều Phật Pháp.


Bùi Đại Dũng, ngày 10 tháng 3 năm 2025

 

Các bài viết liên quan:

Những tác phẩm cũ hơn:

 
Mời các Tác giả gửi bài cộng tác cho Ban Biên tập Nhà Búp qua hộp thư email: nhabup.vn@gmail.com
Văn phòng Thường trực Ban Biên tập Nhà Búp: Số 24, Lý Thường Kiệt, Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội;
Ngoài địa chỉ: www.nhabup.vn, bạn có thể truy cập vào website này qua các tên miền quen thuộc: www.nhabup.net hoặc www.nhabup.com
Website đang được thử nghiệm và điều hành phi lợi nhuận, bởi các tình nguyện viên.