- Trang thơ
La - Lam lặng lặng nỗi niềm quê
Thứ bảy - 11/03/2023 13:41
(Ảnh: Đặng Văn Tôn)
LA-LAM LẶNG LẶNG NỖI NIỀM QUÊ
(Anh Vũ)
Nhắc tới xứ Nghệ Tĩnh là người ta nhớ về 2 con sông. Bên Nghệ An là dòng Lam, bên Hà Tĩnh là dòng La. Đây là 2 dòng sông văn hóa, gắn với nhiều nhân tài đất Việt, gắn với những sự kiện lịch sử và gắn với mọi buồn vui kiếp người…
Hạ nguồn, 2 dòng sông đã hợp lưu và hội nhau như Chàng Kim và Thúy Kiều sau bao thác ghềnh biến cố bể dâu. Chúng cùng đi qua hai núi. Sông Lam qua Dũng Quyết. Nơi đây Quang Trung có ý định lập Phượng Hoàng Trung Đô, chính là nơi chôn nhau cắt rốn, dòng họ quê hương của tôi. Sông La uốn mình quanh dãy núi Hồng Lĩnh hùng vĩ với 99 ngọn nhấp nhô dọc biển cho tới Đèo Ngang. Cả 2 cùng dắt nhau ra đại dương mênh mông ở Cửa Hội.
Nguyễn Huệ tên thật là Hồ Thơm, quê ở Thành phố Vinh hiện nay, cùng dòng họ Hồ Quý Ly ở Quỳnh Đôi. Từ khu di tích Quang Trung vượt dòng La-Lam 5 km là tới bãi cát mênh mông, nơi Nguyễn Du "Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai..."
LA - LAM
Quang Trung đứng khuất trong rừng thông núi Quyết xanh cây
Vòi vọi ngóng Nguyễn Du đi từng bước nặng nề, bơ vơ trên bãi cát dài nóng bỏng
Gió Lào xé tiếng thông xanh thành ngàn vạn mũi tên xỉn màu, đỏ thẫm
Gió Lào tung cát trắng xuống hẹn hò
Kim Trọng,Thúy Kiều đâu thôi hết những âu lo?
La Lam hợp lưu rửa mãi nỗi hờn kim cổ
Kiều Nhi ơi! Trinh tiết đến bao giờ?!
Chẳng chung chiếu chăn
Chung một bàn cờ
Thế sự đỏ đen,
Tình nhân gây cừu hận.
Tri kỷ tri âm
Vẫn bên được bên thua
Hấm hứ được thua!
Tôi thấy Người đi
Trong sa mạc những trang thơ
Có lẻng xẻng xích xiềng
Có cả gông trên cổ gầy gò
Nguyễn Du lẩm bẩm lời,
Kiều sặc sụa những cơn ho...
Nguyễn Huệ - Quang Trung nhíu mày, chau mặt
Lấy tay mài lưỡi gươm
Phấp phới ngọn cờ đàò
Giúp dân dựng nước biết bao công trình...
Nghe đục đá giữa thinh không vắng lặng
Tấm bia nào
thay miệng thế tự thửa xưa?
Nguyễn Huệ ẩn trên núi cao
Nghe róc rách
Suối trườn xuống sông Lam, tả ngạn
Nguyễn Du phơi mình
Chân trần rộp nóng
Đi vô hồn
Trên cát bỏng
Cồn nọ, bụi hồng,
nghèo đói quê hương
Vài cọng khoai lang
Rễ sùng, củ thối
Một giỏ đầy cỏ dại
Có cứu được mặt trời vàng
Một mẹ với ba con?
Sông La hữu ngạn
Hợp lưu với dòng Lam
Ngoằn nghèo một con đường
Ra biển khơi
Vọng thuyền ai thấp thoáng
Có những con thuyền
Đè lên bao con sóng
Lướt trùng khơi ào ạt xuống Chiêm Thành
Cứu công chúa Huyền Trân đang khiêng lên đàn lửa
Có những con thuyền qua cửa bể vắng tanh
Bát ngát gió Lào rừng rực lửa
Dòng họ Nguyễn Du
Đã bỏ quê cha xứ sở
Bước chân xuống thuyền
Hướng về Nam
Kết duyên cùng mảnh đất Nghi Xuân
Gắn với Hồng - La - Lam, núi sông muôn thửa
Linh khí chất đầy
Từ mái rạ, cội thông
Lắng nghe từ cuồn cuộn, ầm ầm
Khi trời nổi bão giông
La Lam phăm phăm bay về biển cả
La Lam soi gương mặt Kiều
Khiến chiều yên ả
La Lam vuốt ve bàn chân con gái
Thõng mạn thuyền,
Một chuyến sang ngang...
Nghe rất rõ lời ru tiếng ví dặm đò đưa
Chưa về đến ngõ nhà chồng
Tuổi hoa niên, con tim đã hát
Ai người tiếc ngẩn tiếc ngơ
Vàng rơi không tiếc
Tiếc công cầm vàng
La Lam nước chảy lờ đờ
Tiếc công lặn lội, bây giờ là đây.
Ư,
Vàng rơi không tiếc, tiếc công
Tiếc đến não lòng
Tiếc đến bâng khuâng
Nghe sóng hát, hay nghe lời em hát
Mà rười rượi bến sông buồn
Gánh Nước nặng hai vai.
Em trở vai này,
Chín rạn vai anh...
La Lam quây tròn thành hồ kỷ niệm
Cho ta ngồi lại với mình
Tìm lại tấm chân tình
Cho ta bớt lang thang.
Có những con thuyền qua cửa bể La Lam
Đông nghìn nghịt những quan quân
Cờ lọng tả tơi
Những bàn tay rã rời
buông đốc kiếm
Cả một triều đình chạy loạn
Qua quê hương
Qua nhà thờ Tổ họ Hồ
Quýnh quáng biển Cẩm Xuyên
Để kết thúc một cơ đồ...
Hang Thiên Cầm ai oán
Nhạc vong quốc tấu lên
Trời xanh có tỏ?
Gió khơi rú tiếng ốc vang rền.
Hồ Quý Ly và con trai bị bắt
"Cha ơi, dũng tướng này có thừa tài trí hơn người
Không sợ giặc
Nhưng chúng ta mất tất cả giang sơn
Trong chớp mắt
Bởi triều đại cha con mình
Trị vì không cần Đức
Chỉ còn hà khắc
Nay xây thành,
Mai đắp lũy
Rút kiệt hết sức dân
Chở thuyền và lật thuyền
Bài học ấy
Cha con ta
Đọc lý thuyết đến ngàn lần...".
Không biết Hồ Nguyên Trừng
Khi buộc ngược đường lên phương Bắc
Hẳn nhiên qua Cửa Hội
Đè sóng nuớc La Lam
Có rát mặt anh hào
Bởi những trận gió Lào
Cồn cào như cái Đói
Ở quê hương ông
Người dân lầm lụi
Cúi mặt cho đất
Bán lưng cho Trời
Những bãi cát dập dềnh
Như bè mảng dân lên ngàn khốn khó
Chập chềnh sông biển đầy vơi
Cát khát
Giọt mồ hôi
Gió Lào se những ngọn cỏ mồ côi
Những người dân đơn côi
Vắt máu, nghiền xương
Cho triều thế lở bồi...
Không biết Hồ Nguyên Trừng có nghe
Ngàn thông trên đỉnh núi Hồng, non Quyết
Kéo những ngọn gió sắc như dao
Tua tủa dựng hờn căm lên trời thẳm
Kết án cha con ông như bạo chúa phương nào
Mất nước rồi kiếp nô lệ lao đao...
Đất Nước này lại gươm, lại giáo
Lại quặn nở anh hùng Lê Lợi, Quang Trung
Lại Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương tiết tháo
Lại Phan Bội Châu giã từ đêm ví dặm sáng trăng
Giã từ La Lam,
Một cánh buồm côi sang đất Nhật..
Ôi phải chi, đừng có lỗi lầm
Cha con họ Hồ
Thương Nước, an Dân
Tất cả anh hùng trận mạc
hóa Nguyễn Du....
Vị vua tương lai họ Hồ
Thành kỹ sư đúc chuông, đúc súng thần công,
rèn đao, mài kiếm
Cho giặc Minh sang triệt hạ dân này
Bao đầu rơi, máu chảy
Từ tài trí hơn người, con của đức vua đây!
Có những chiều về,
Mây lướt thướt đen rầm cửa Hội,
Rửa trắng phau cát bỏng quê nhà,
Bới tìm sau giông bão mưa sa,
Rễ củ khoai hà,
Về luộc sượng.
Vắt tròn nắm nhút,
Trắng giòn đĩa cà,
Những chiếc đũa xỉn mồ hôi,
Quờ quạng giữa nia,
Ăn cái Đói,
Mà thương...
Chiều La Lam,
Vi vút sáo diều,
Giữa gió Lào lồng lộng lửa,
Ai giận rồi thương trong đáy mắt ...
La Lam?
Thành Lục Niên trên ấy,
Giữa heo hút sơn khê,
Những đêm tướng sỹ mài kiếm dao,
Ức Trai nhẩm Bình Ngô Đại Cáo,
Gửi trăng sao...
Những đoàn quân,
Hát Khải Hoàn Ca,
Uống vội ngụm nước La Lam,
Hướng về Đông Đô,
Kinh kỳ rồng lượn.
Có giọt mồ hôi nào,
Trong đoàn người gồng gánh,
Nạp cống Bắc Triều?
Có người anh hùng nào,
Đen quánh như một phiến Mun,
Sừng sững anh hào,
Vua Mai Hắc Đế...
Vẫn thích nhìn cửa bể,
Dù chiều hôm nới rộng hai bờ,
Vừa gặp gỡ đã xuôi lòng biển mặn...
Ngóng một cánh buồm,
Rực rỡ trống chiêng,
Xúng xính lụa điều, pháo nổ,
Rõ tiếng thông reo...
Kiều- Kim trẻ lại,
Những khúc Đoạn Trường xưa,
Chỉ là dư âm,
tiếng bẻ lời bai...
Nguyễn Du mỉm cười,
Ngấn long lanh,
ngồi gõ mạn thuyền,
Gọi người Quan Họ,
Quê mẹ cầm tay,
Nhịp phách này...
Gõ nhẹ ...
Đôi mắt này...
Trẻ lại ...
Lúng liếng...
Như say...
Chiều lại mênh mang,
Ngóng mắt lên dãy núi Giăng Màn,
Mây trắng xóa,
Dừng chân mây đứng lại,
Phía chân trời,
viền xanh núi mùa Xuân...
Có phải Lãn Ông mang biển lên ngàn?
Gặp vách núi cheo leo,
Hái chùm lan trắng?
Giỏ thuốc hái đầy,
Nhẹ hẫng, thoảng hương lan.
Thuyền nhẹ thênh thênh,
Trôi dọc La Lam,
Nhìn trời sao chỉ đường,
Rẽ vào dòng suối nhỏ,
Vào nhà tranh nghèo,
Đứa trẻ vừa dứt cơn ho,
Bệnh trọng rơi vào người khốn khó...
Nhìn chúng sinh,
Vệt nước mắt lau khô.
Nhìn trướng gấm bạc vàng,
Trong dinh Vua, phủ Chúa,
Ngẫm nhân tình, thời thế,
Mà lo.
Bỗng òa vỡ phía chân trời,
Mây trắng từ dãy Giăng Màn cuồn cuộn trôi ra,
Hối hả.
Giặc Thanh đã chiếm đóng Thăng Long,
Lê Chiêu Thống rước voi về giày mả Tổ.
Lòng dân nghiêng ngả,
Tiếng suối khe,
Nghe thống thiết giữa La Lam...
Người ẩn sỹ tưởng dấu mình với gió núi mây ngàn,
Chân bước gấp, rẽ rừng già núi thẳm,
Một chiếc thuyền con,
Đè lên trên sóng,
Lao như tên về chốn phồn hoa...
Núi Quyết, rừng thông,
Rừng kiếm, chật đông,
La Sơn hội kiến với Quang Trung...
Chỉ chớp nhoáng,
Mà thành Thần tốc.
Ngồi câu cá trên bến vắng La Lam,
Mà lắng hết mọi phong ba thế sự,
Đâu cần Tam Cố Mao Lư,
Người ẩn sỹ thoắt thành một Đấng Quân Sư
Lo chu toàn cùng anh hùng áo vải...
Giặc ở Thăng Long chẳng bận tâm, sợ hãi,
Nguyễn Thiếp La Sơn lo kiến thiết sơn hà.
Một thiên tài,
Một tấm lòng trong...
Rời trướng hùm vào giữa trung quân,
Quang Trung tuyên lời hịch,
Sóng nước La Giang truyền những câu chắc nịch,
Sông núi này là của nước Nam
Sóng nước trào dâng lời Thần Như Nguyệt
Mảnh trăng nào lành lặn một vầng trăng...
La Sơn xuống núi,
Mây rồng gặp nhau,
Ba quân kết thành một khối,
Nghe rần rật trong tim sâu thẳm tiếng Đồng Bào.
Thề ăn Tết với hoa Đào,
Trên đất Bắc.
Giành lại giang sơn,
Giữ lấy cơ đồ...
La Lam mặn giọt nuớc mắt đầu nguồn
Hàm Nghi bị quan thần bán đứng
Nhà vua Cần Vương hận lệ để giữa rừng
La Lam rửa vết thương Phan Đình Phùng
Từ phiến đá suối khe
Từ Vũ Quang, căn cứ địa Hương Khê
La Lam gào nức nở
Khi Cao Thắng bỏ mình, cuộc hành quân dang dở
Đêm đuốc nghĩa rối bời
Soi tìm tên phản bội...
Từ núi Quyết
Quang Trung buồn trông cửa bể
Bãi cát Nghi Xuân
Nguyễn Du ném ngọn bút
cầm tay chính mình
định viết
Dù một câu thơ không thể viết.
La Lam dùng dằng
Không muốn chung dòng chảy
Nàng đưa
Chàng đẩy
Đục - Trong,
Vinh - Nhục,
chẳng sang nhau...
Lên thác,
Xuống ghềnh
Hái trái mơ chua
Uống ngụm nước đầu
Dành nửa trái sim
để mà đau...
Nguyễn Du cúi đầu
Bước hụt mãi ra biển khơi xa ngái
Ngọn nuớc vời xa
Hoa trôi man mác
Biết về đâu ?
Sài Gòn, 2018
AV