- Lý luận - Phê bình
Dòng cảm thức tình quê sâu lắng
Chủ nhật - 24/08/2025 10:42
DÒNG CẢM THỨC TÌNH QUÊ SÂU LẮNG
(Đọc tập thơ “Đi qua mỗi ngày tôi”- NXB Hội Nhà văn 2025 của Trương Minh Hiếu)
Nguyễn Đình Minh Trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam TP. Hải Phòng
Đọc 59 bài thơ của Trương Minh Hiếu trong tập “Đi qua mỗi ngày tôi”, tập thơ còn “nóng” sắc độ mùa hè 2025, sẽ không khó để tìm thấy một dòng chảy lúc thầm lặng, khi mạnh mẽ cồn cào xuyên suốt trình tập; đó là cảm thức tình quê ngân lên trong trái tim người viết. Nói vậy, bởi những bài thơ của vỉa đề tài chiếm một trọng số khá lớn, nó gần như xuất hiện trong toàn tập và được giãi bày bằng nhiều điệu thức và vang động từ nhiều cung bậc.
Dù là Giám đốc của một doanh nghiệp lớn và sống giữa phồn hoa đô thị Hải Phòng, nhưng đọc Trương Minh Hiếu có thể nhìn được dấu vết con đường anh đi, những hoài niệm mà tiếng lòng anh gọi về. Ta gặp ở đó, trong những mảnh không gian thời gian quá vãng, hay trong những trạng huống cảm và nghĩ cụ thể của tác giả thì đó luôn là những dấu ấn như mặc định về đất và người quê hương anh - vùng quê lúa Thái Bình.
Hành trình theo bước 59 thi phẩm, ta tìm được cách “gọi” thơ về của tác giả. Đó là khi có sự tái hiện hay va chạm của nhà thơ vào đối tượng cảm xúc thì lý trí và tâm hồn tác giả cùng thăng hoa. Từ đây, trí tuệ giúp anh dựng ý hình thành tư tưởng bài thơ, còn cảm xúc đem đến cho anh những thi ảnh, nhạc điệu và hệ ngôn từ nghệ thuật. Sự giao hòa vào nhau giữa chúng kết thành một “đóa thơ”. Cái “cách thức” làm thơ như vậy giúp những bài thơ, câu thơ của Trương Minh Hiếu trong tập này, nếu ví chúng như một cánh đồng lúa quê anh thì không có bông, có hạt nào non lép. Chính bản thân tác giả cũng tự nói cái cách thức bắc cầu dải lụa để dẫn “cái ngày xưa” về với thơ mình: “Bên sông vẫn cỏ bời bời/ Vẫn xanh vạt nắng cuối trời sau mưa/ Bây giờ về lại ngày xưa/ Ta buông dải lụa gió đưa làm cầu” - (Buông cầu dải lụa).
Lúc mà tâm hồn nhà thơ chảy trong giai điệu đầy tiếng quê ấy thì những hình ảnh ấn tượng nhất trong trái tim anh sống dậy và cất cánh thành thơ. Có lẽ cũng vì vậy, hình ảnh người mẹ là hình ảnh đầu tiên xuất hiện:
Con đi từ buổi trưa này
Mẹ trông từng bước giấc đầy, giấc vơi
Tàn canh thức với đất trời
Nếp nhăn hằn tiếng ru hời cạn đêm
(Lời ru ban trưa)
Người mẹ với lời ru trong thi ca là hình ảnh quen thuộc, nhưng dựng hình ảnh mẹ với lời ru ban trưa trong thơ là hiếm gặp. Đọc bài thơ, ta thêm một lần ngạc nhiên là mẹ với lời ru đã thức suốt ngày đêm và không chỉ là mắt thức mà là lòng mẹ luôn thức dõi theo bước con đi. Điều ấy không phải là vô hình mà nó đọng lại, nó không chỉ là cảm nhận mà còn nhìn thấy rất thật: “Nếp nhăn hằn tiếng ru hời cạn đêm”. Tứ thơ vì vậy mà tạo ra sự khác biệt, ví như vẫn đi theo con đường mòn nhưng tìm ra vẻ đẹp của nhành hoa xấu hổ đang dần khép, nghe tiếng gáy mơ hồ của chú dế đất trong vệt cỏ xanh chạy dài…, chúng vốn là một phần tạo nên hồn vía của con đường. Trong tập có nhiều bài, nhiều câu thơ về mẹ được viết bằng tâm thức thương yêu trăn trở, day dứt... Nhưng điều quan trọng nhất là tác giả đã kiến tạo được hình tượng mẹ có thật gắn với đời mình và tỏa ra chất hương đồng gió nội: “Một đời đằm dưới bùn sâu/ Bàn chân mẹ lội nát nhàu đồng xa” - (Gió đồng xa). Song hành với hình ảnh mẹ là hình ảnh cha. Có thể nói, so với viết về mẹ thì thơ viết về cha chiếm lượng khá khiêm tốn. Trương Minh Hiếu nằm trong số ít những nhà thơ có bài thơ viết về cha như vậy. Bài thơ “Ngày về” dành cho người cha đáng kính trong bối cảnh tiễn cha về miền vĩnh hằng: “Con xa lạ giữa miền gần gụi quá/ Cha về thôi mà mãi mãi không về”. Một nỗi xót xa khi nhận ra cái không gian miền quê cha gắn bó mà mình lại xa lạ, hay cái không gian “phụ tử tình thâm” tác giả đã có những thoáng coi nhẹ để bây giờ ân hận? Và kết thúc là một sự hẫng hụt! Để diễn tả điều này, tác giả đã khá tinh tế khi dùng điệp từ “về”, trong đó mỗi từ mang một nghĩa khác. Từ “về” đầu câu diễn tả bước cha đi tới miền vĩnh cửu, nó nhẹ nhàng, tất yếu như quy luật tạo hóa, nhưng từ “về” cuối câu lại trĩu nặng bởi sự mất mát vốn không ai muốn xảy ra của một cuộc vĩnh biệt! Sự mất mát của chính người con. Chính vì chất máu thịt trong tình cảm của tác giả với mẹ cha đằm thắm vậy nên trong miền cảm thức chung của tập thơ này, tiếng lòng của nhà thơ cất lên về cha mẹ là nỗi khắc khoải yêu thương gắn với hoài niệm về không gian mái ấm giản dị, nghèo khó nhưng lại ấm áp và giàu có về tình yêu cha mẹ dành cho:
Chợt thơm hương của rơm đồng
Ổ nằm mẹ ủ ấm nồng áo khăn
Thiếu thừa chiếu cuộn làm chăn
Cha chong chong giấc. Rét đằm đêm xưa
(Nhớ rét)
Hình ảnh con người miền quê trong tập thơ không chỉ dừng lại trong trung điểm là cha và mẹ. Trương Minh Hiếu sinh ra từ chiếc nôi quê, nên chất quê kiểng gắn với con người trong thơ anh cũng được tái hiện sinh động, thi vị nhưng phảng phất nỗi buồn:
Đắn đo trước chuyến đò đầy
Dòng sông bỏ lại sóng lay lắt buồn
Mùa về nắng đổ mưa tuôn
Người như mỏng mảnh cánh chuồn bay đi
(Mùa cũ)
Thân phận con người “mỏng mảnh cánh chuồn” giữa đất quê có con đò đầy trên mặt sóng buồn, trong sự khắc nghiệt của thiên nhiên nắng mưa dữ dội…, là hình ảnh giàu sức ám gợi và nó không thể trộn lẫn với con người ở những miền quê khác. Đây có lẽ là những câu thơ khái quát nhất về số phận con người quê hương mà Trương Minh Hiếu vớt được từ dòng chảy hoài niệm?
Có những đoạn thơ tác giả diễn tả khá thành công hình ảnh con người quê nhỏ bé, nháo nhác dưới áp lực của những trận lũ sông Hồng cách đây gần nửa thế kỷ. Đọc thơ, chúng ta nhận ra chân thân tác giả, người chứng kiến/ người nghe…câu chuyện về tình cảnh cư dân ven sông Hồng khi mùa mưa lũ tràn về như giặc dã:
Lũ bao mùa mấp mé bờ mom
Nay nước ngập lưng bờ tre, ngọn chuối
Làng thắc thỏm mâm cơm chiều dọn vội
Điếm canh đêm í ới gọi tên người
(Lại viết về mùa lũ)
Người quê trong tâm thức tác giả cũng có những khúc vui nhưng “nhấp nháp” câu thơ kỹ một chút lại vẫn thấy nó vẫn mỏng manh giữa vô thường – một quy luật bi tráng của cuộc người trần gian nơi đồng nội: “Được mùa như buổi chiêm bao/ Rau xanh, quả chín xôn xao tay cầm”. Ngay cả niềm vui của tác giả ở tuổi hoa niên vẫn cứ không trọn vẹn:
Hồi trống trường tan lớp đã về chưa
Mẩu giấy mềm giấu nét mi dè dặt
Trên ghế đá thầm thì câu thơ viết
Có một người ở lại thẫn thờ đi
(Gọi nhau về trường cũ)
Và cuối cùng, ngay cả nhà thơ với tư cách con người của quê hương do chính anh tạo dựng thì tâm trạng với chút tình buồn diệu vợi dẫu đã là quá vãng mà khi hiện về vẫn là khắc khoải: “Vội vàng thả giữa chòng chành/ Ngờ đâu thuyền đẩy gió thành bão dông” – (Thoáng gặp ngày xưa).
Có lẽ, cái chất quê vốn thấm đẫm vào hồn thơ của tác giả nên trong những cuộc va đập khác với ngoại giới ở nhiều khung không gian và thời gian khác nhau, người đọc vẫn cảm nhận được từ đó khúc buồn hiền hậu của trái tim và sự đa mang, đa cảm của một nhà thơ thực sự không bị tiết tấu nhịp sống hiện đại tha hóa. Anh vẫn buồn, ngơ ngác trước cảnh con người trên sông Tiền nổi nênh mặt nước (Tìm về chợ nổi Cái Răng); vẫn thắc thỏm khi trải lòng với tiếng giun đào đất, tiếng ếch kêu ở mãi vùng đất phương Nam – (Phú Nghĩa một ngày). Và ngay giữa lòng phố thị thì hình ảnh người đàn bà với gánh hàng hoa bán dạo – hình ảnh con người nửa tỉnh, nửa quê vẫn hiện lên như một thân phận nhọc nhằn mang trên vai mình nặng gánh truân chuyên: “Phố ồn ào, lời mời gọi dần thưa/ Chỉ còn nắng rắc hoa tròn vai mảnh” - (Về một người gánh hoa).
* **
Trong những điệu khúc nhà thơ trao lòng với mảnh đất quê, thì chất quê được tái tạo sinh động bằng những chất liệu dân giã, đậm hơi thở thiên nhiên và hương sắc đồng nội. Đây là tiếng lòng anh ngân lên về quê tổ của mình: “Nhà tôi bên ấy sông Hồng/ Gió mênh mông gió, mây bồng bềnh mây” – (Thả gió qua sông).
Nơi miền đất ấy là một thế giới đơn sơ mà giàu có, êm ả mà chuyền vần có hương, có vị, có hoang sơ thiên nhiên và có hơi ấm bàn tay người..., tất cả dành cho tâm hồn nhà thơ giao cảm, hòa vào và nhung nhớ:
Sông thôi nước lũ bờ tràn
Triền đê dâng tím bạt ngàn cỏ may
Mắt na đã mở căng đầy
Thơm hương ổi chín, chim bầy tìm đôi
(Cuối hạ)
Reo vui với quê mẹ là một mạch chảy trong dòng cảm xúc quê trong tập, nó cũng ngân lên ở nhiều câu thơ và tạo ra những hình ảnh đủ sức gây thương nhớ cho tất cả những ai có một thời xa vắng như tác giả: “Đêm trăng gầy ngọn gió thức à ơi/ Tiếng giã gạo cha thập thình chân nhún”. Hay:
Dốc đê làng cát bụi lấm xô nghiêng
Dấu gồng gánh những mùa màng xanh mướt
(Nhớ thương về với quê nhà)
Song, cũng như khi viết về người, hình ảnh đất quê trong thơ Trương Minh Hiếu vẫn nhuốm sắc buồn. Ở đây, dòng hoài niệm luôn không ngừng chảy về quá khứ xa, thời đất nước đói nghèo:
Xưa quê nghèo lấp xấp cánh đồng hoang
Là lau sậy xanh ngút ngàn cỏ dại
Là nắng nẻ chân chim, là mưa giăng trắng bãi
Là khô cằn vô vọng những mùa lên
(Trên đồng bãi hoang xưa)
Có một nhà thơ Trung đại khi bàn về làm thơ, ông khuyên, đại ý: thơ quý nhất ở cái chân thật, cái tình thật, còn làm cho câu chữ đẹp đẽ bay bổng… thì chỉ là việc làm thêm mà thôi! Từ ý này suy xét đoạn thơ vừa dẫn, có thể nói Trương Minh Hiếu đã thành công ở việc tái tạo cái hiện thực, cái “chân quê” của chính cái nôi anh sinh ra. Có lẽ các nhà thơ phường phố và các thi sĩ trẻ hôm nay sẽ rất khó khăn khi tái tạo được những hình ảnh thơ như vậy; trong khi Trương Minh Hiếu dễ dàng “nhặt” nó ra từ kỷ niệm. Bởi đơn giản, anh là người đã sống với cảnh ấy, tình ấy với tư cách người trong cuộc.
Cũng có lúc chân dung quê mẹ được tác giả xây dựng bằng hình ảnh đậm chất thơ và mang tính ẩn dụ cao. Nó tự lộ diện tấm tình của nhà thơ với quê hương; một sự nặng lòng, một nỗi trắc ẩn nhớ thương thông qua giọt mưa hòa giọt lệ tràn qua ánh nhìn mắt người:
Bao năm biền biệt quê xa
Chiều nay mưa ướt tràn qua mắt nhìn
(Mưa quê nhà)
Trái tim nhà thơ nhiều lần tỏ ra nhạy cảm khi nó va đập vào sự biến đổi của làng quê thời 4.0. Hiện tượng làng lên phố đã xuất hiện ở nhiều vùng miền ở thời kỳ đổi mới, ban đầu nó đã tạo ra nhiều trăn trở, băn khoăn, thậm chí hoài nghi lo sợ trong cộng đồng dân cư vốn gắn bó ngàn đời với đất đai và nghề nông. Ở Trương Minh Hiếu, những câu thơ anh viết về mạch ý này thường có hai thông điệp, một là niềm vui trước sự đổi mới, song vẫn có sự xô bồ với những ngổn ngang cần khắc phục của thời quá độ; và nửa còn lại vẫn ngầm gửi tâm tình vào thuở xa xưa nơi mảnh thời gian đã in khắc trong hồn dù đói nghèo nhưng lại rất thơ:
Con đường chiều mờ cát bụi năm xưa
Nghé lạc mẹ lơ ngơ tìm í ới
Giờ dọc ngang tấm biển xanh dẫn lối
Phố đi về rộn rã tiếng còi xe
(Phố mới)
Thậm chí đứng giữa khu du lịch cao cấp – biểu tượng của sự giàu sang thời mở cửa nhưng tác giả lại hướng lòng rung động trước cỏ - một biểu tượng của miền quê nông nghiệp nhỏ bé chìm khuất trước thực tại. Quan trọng là, trước cỏ anh nhận ra cái vô nghĩa của mình nếu thiếu vắng nó trong cuộc đời:
Sớm mai lên mặt trời hồng rực rỡ
Không cỏ mềm ta còn với bơ vơ
(Bãi cỏ đêm đông)
Tất cả những thương nhớ và tri nhận về quê mẹ đã đúc lại thành triết lý sống của nhà thơ. Quê hương với mảnh trời kỷ niệm xưa luôn được cất ủ cẩn trọng trong tâm và là điểm tựa cho sự sinh tồn của anh; thế nên nhiều khi đứng giữa sự tràn trề vật chất và sự ồn ào của nhịp sống nơi đô thị hiện đại, tác giả như lạc lõng với điệu sống này: “Người đang vui với phố phường/ Quê người tôi lạc giữa đường ngẩn ngơ” – (Cây gạo gù mùa thu). Đây là một cách nói, hồn anh đã chọn cho anh một miền quê đích thực. Đó là quê mẹ ở những ngày xưa. Với Trương Minh Hiếu, quá khứ không trôi đi theo dòng thời gian mà nó chạy về lưu đọng ở sân ga lòng người vẫn từng ngày đón đợi. Bài thơ “Ngày ấy mình về thăm quê” giống như một tuyên ngôn của tâm hồn tác giả về cội nguồn, về sức mạnh của nguồn năng lượng vô biên ẩn dưới dạng vô hình đã kiến tạo nên chính nhà thơ:
Ra phố thị thành danh. Phố thị ở trong quê
Nơi có mẹ cha anh, em thầm ơn được gọi là cha mẹ
Vầng trăng sáng triền đê, cau nghiêng chiều bóng xế
Có ngày xưa, để hôm nay chúng mình có bây giờ.
*
Thêm một lần đọc lại tập thơ tập thơ này của Trương Minh Hiếu, tôi vẫn nhìn thấy nhà thơ đang đi giữa những nhớ thương theo con đường quê xưa. Và trên con đường ấy, những khúc tâm tình của tác giả cất lên trao gửi cho đất quê, người quê đằm thắm sự sẻ chia và yêu tin. Tôi nghĩ rằng, vỉa đề tài này là thành công nhất trong trình tập, bởi nó không chỉ chiếm số lượng lớn ở các bài thơ độc lập, các câu thơ trong các bài khác, mà nó còn dồn trọng số chất tâm hồn vào đó. Và quả thật ở những thi phẩm như vậy, thi liệu, thi ảnh và ngôn từ đậm đặc chất thơ hơn, nó giúp sức cho người viết kiến tạo được những bài thơ đúng nghĩa.
Tôi gấp lại những trang thơ nhưng vẫn nhớ rõ tập thơ còn ghi nhận sự rung động của trái tim tác giả trước nhiều đề tài khác: về tình yêu, về biển cả, về sự đổi mới của thành phố Hải Phòng và cả những triết lý cuộc sống…
Đành lòng xin dừng lại ở đây và hẹn trao đổi cùng nhà thơ khi hữu duyên; giống như chính người thơ đã từng mặc định trước:
Đêm tàn phai nuối tiếc cũng rời xa
Ban mai đến như người yêu hẹn đợi
Qua một ngày, lại một ngày tiếp nối
Trước dòng trôi
Trong quy luật vô thường
(Đi qua mỗi ngày tôi)
Làng Gừng, huyện Vĩnh Bảo, tháng 6 năm 2025
NĐM