- Lý luận - Phê bình
Thơ Nguyễn Thị Toán - Tiếng thơ của một tâm hồn yêu thương dung dị
Thứ ba - 14/10/2025 14:10
(Ảnh: Minh Hương)
THƠ NGUYỄN THỊ TOÁN - TIẾNG THƠ CỦA MỘT TÂM HỒN YÊU THƯƠNG DUNG DỊ
(Nguyễn Thị Minh Hương)
Tôi may mắn được đọc tập “Hà Nội ngày con xa” từ lúc còn là bản thảo, đang trong hành trình trở thành tập sách mới của Nguyễn Thị Toán. Tác giả thân quen nên có thể dễ đồng cảm, dễ hiểu hơn chăng? Vâng, đúng đó là một “lợi thế” của người đọc. Vì xưa nay, vẫn có câu “nằm lòng”: “Văn chính là người”- người thế nào, văn chương thế ấy. hay “ Người thơ phong vận như thơ ấy” (Hàn Mặc Tử). Còn Cao Bá Quát trong “Chu thần thi tập” có nói: “Thơ không có phẩm chất nhất định. Phẩm chất của người là phẩm chất của thơ. Phẩm chất của người cao thì phẩm chất của thơ cao.” Chính vì những lời vàng ngọc của cổ nhân như thế mà tôi đọc Thơ của Toán bằng con người em và rồi đọc thơ em thấy hiểu hơn , tin hơn một Nguyễn Thị Toán với tâm hồn yêu thương dung dị, thật đời thường! Chính nét đẹp đó làm nên giá trị cho tập sách của em!
Tôi nhận thấy, phần thơ trong tập này dành cảm xúc cho mấy mảng đề tài lớn: Mảng đề tài thứ nhất là: Cảm xúc về thiên nhiên, về mùa. Mảng đề tài thứ hai là: Cảm xúc về các vùng quê, vùng đất. Mảng thứ ba là: Cảm xúc về những người thân yêu trong gia đình, về cha mẹ, về các cháu. Nhìn bao quát đã thấy tác giả dành nguồn xúc cảm của mình cho cảnh sắc, người thân- những phạm trù gần nhất, quen nhất, thân thương nhất hiện hữu quanh mình. Đó đã là dấu ấn đầu tiên của sự rung cảm rất đời thường và dung dị rồi.
Đến với từng mảng đề tài, chúng ta sẽ được thuyết phục hơn nữa từng trạng thái tâm hồn của thi sĩ trước cảnh, trước người. chúng ta mới thấy rõ hơn chân dung một “con người thơ” và những tình yêu thương trong đó lay động, lan tỏa trong tâm hồn ta thế nào, mới thấy giá trị nhân văn mà mỗi trang viết nhen nhóm lên trong mỗi chúng ta!
Thi sĩ nào cũng không thể không yêu thiên nhiên cho được. Nguyễn Thị Toán cũng không ngoại lệ. Cảm xúc tháng ba là bài mở đầu cho tập sách, với những dấu ấn thật đẹp về mùa – cuối Xuân, đầu Hạ. tất nhiên, tháng Ba là cái cớ để thi sĩ neo đậu những xúc cảm về quê hương, về người thân, nhưng ta có thể tách ra những hình ảnh thiên nhiên tháng ba rất đẹp. Nào là cơn “mưa rào bất chợt”, nào là “Mộc miên bung lửa thắp vào trời xanh; Nào là Bao mùa hoa cải rực vàng bến sông…
Tháng ba bát ngát lúa đồng
Trầu xanh ngăn ngắt…
Hoa xoan rụng tím đường quê
Thật đúng với thần thái, hồn vía vùng quê Bắc bộ mỗi độ tháng Ba về!
Đến với một bài thơ về biển, chúng ta lại càng thấy sự nhạy cảm tâm hồn của thi sĩ khi cảm nhận thiên nhiên hùng vĩ ấy sao mà gần gũi, đơn sơ như một con người đang mang tâm tình riêng, rất đỗi riêng tư!
Sóng nhớ ai mà cồn cào đến thế?
Cứ xô bờ dào dạt mãi không nguôi!
Ngủ ngoan nào ơi con sóng đầy vơi!
Ngủ ngoan nào vầng trăng xanh vời vợi!
Gió thao thiết ru hàng cây ngóng đợi
Những con thuyền khát vọng đã vươn khơi…
Vẫn là cái nguyên cớ tình tứ ấy- Biển, thiên nhiên luôn là cái cớ, là thứ cảnh sắc neo đậu tình người, nó rất đúng với tâm trạng con người khi ở trước biển, trước thiên nhiên ấy. Tôi đọc bài thơ “Biển đêm” mà nhớ như in khung cảnh biển đêm hôm đó. Chúng tôi cùng nhau bên biển Đồ Sơn vào đêm hè tháng 7 năm 2024 đó. Nhưng tôi cũng chắc chắn rằng mỗi người cảm nhận biển đêm đó một cách khác nhau. Nguyễn Thị Toán đã đồng cảm với nỗi niềm của cô bạn gái thân thiết nhất để rồi hòa tâm trạng của người bạn ấy vào từng con sóng, từng hơi thở của biển, từng ngọn gió, hàng cây, con thuyền, vầng trăng trên bầu trời biển đêm… Sóng gắn liền với nỗi nhớ, rồi cồn cào, rồi xô bờ… mãi không nguôi thì không phải là cách nhìn mới nhưng vẫn làm ta xúc động vì liên tưởng đó rất hợp với thứ thiên nhiên có chu kỳ đặc biệt hồi hoàn, da diết này. Vậy là thi sĩ ngắm biển, cảm nhận biển để bày tỏ một sự đồng cảm với tâm tình sâu lắng của bạn gái- một tình yêu thương bạn đặc biệt như thế đó!
Em một mình bé nhỏ trước biển đêm
Trái tim tưởng đã lắng rồi giông bão
Vẫn khát khao về một thời khờ khạo
Về một thời rạo rực đón triều dâng…
Vậy là chủ đề thiên nhiên trong thơ Nguyễn Thị Toán hòa quyện tự nhiên với chủ đề tình bạn, tình yêu những mảnh đất quê hương nước Việt ta. Một loạt những bải thơ sau đều chung cảm hứng trữ tình đó: Cảm xúc tháng Ba, Biển đêm, thương mãi một miền quê, Về Phú Nghĩa, Đi dọc miền Trung, hay Hà nội ngày con xa…
Đọc thơ của Nguyễn Thị Toán mà cứ thấy hiện lên một cô bé dáng người nhỏ nhắn, nhìn vẻ ngoài cón có vẻ yếu ớt ( chỉ lo em đang ốm, hay đau gì đó không?, cứ ám ảnh trận ốm năm nào của Toán làm Nhà Búp lo lắng vô cùng!)Vì vậy mà tôi ngạc nhiên vô cùng về một nội lực sống, một nội lực cảm xúc, một nội lực yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu bè bạn, yêu thương bao người thân yêu ruột thịt của mình: cha, mẹ các con cháu… Sao mà dồi dào mạch xúc cảm đến vậy! Sao mà dâng hiến đến thế cho mọi điều ngoài…bản thân mình! Tôi chợt thấy mình bé nhỏ hơn em, chưa trải nghiệm bằng em, chưa sâu sắc, nhạy cảm bằng em…Ấy là chưa nói tới cái tài “xuất khẩu thành thơ”, cái tài thuộc rất nhiều thơ của bạn bè, anh chị em nhà Búp…
Người ta thường ví: “Tâm hồn của thi sĩ như dây đàn, khẽ chạm vào là ngân rung lên các cung bậc, âm sắc…” Quả đúng vậy, rất đúng với thi sĩ Nguyễn Thị Toán của chúng tôi. Bao bài thơ của Toán đều bắt đầu từ một lần “chạm” vào tâm hồn ấy nơi em! Hay nói một cách khác: “dây đàn” tâm hồn em chạm vào những “lát cắt của cuộc sống” là đã ngân rung những âm sắc trữ tình, rồi biến hóa thành những ý thơ, tứ thơ, những lời thơ ngọt ngào. Ví dụ như: Một chuyến đi, một sự kiện thường nhật, một cung đường, một vạt đồi, một miền quê -có khi là lần đầu tiên đến…rất lạ, rất mới mẻ, vậy mà cảnh đó, những câu chuyện của đất, của nước, của người, của lịch sử …đã nhanh chóng ngân rung, vang vọng thành những tình ý, những cảm xúc dâng tràn. Đôi khi ta thấy miên man, dàn trải một chút, hơi tham một chút những ý , những lời.. nhưng có lẽ đây cũng làm nên nét riêng của thơ Nguyễn Thị Toán chăng? Đó là cái tình, cái ý không muốn ngừng lại, không muốn đơn sơ… mà muốn dài rộng, muốn mênh mang với đất trời. Đọc những bài “Đi dọc miền Trung, Về Phú Nghĩa, Thương mãi một miền quê hay nhiều bài khác nữa chúng ta đều thấy cái khát vọng rất rộng dài này của thi sĩ. Đó là một kiểu thơ, một phong cách thơ dài rộng mang hơi hướng, cách viết của trường ca.
Các bạn hãy đọc Đi dọc miền trung sẽ thấy: bao la, bạt ngàn những không gian, những tên đất, tên làng, những di tích, những địa danh của cả một dẻo miền trung đau thương mà anh dũng: Miền đất gầy guộc, cát trắng cháy chân, gió Lào rát mặt; Dòng Nhật Lệ, địa đạo Vịnh Mốc, Biển Cửa Tùng, Thành cổ Quảng Trị, dòng sông Thạch Hãn, Cầu Hiền Lương, Nghĩa trang Trường Sơn, Nghĩa trang Đường 9 – Nam Lào, biển Đá Nhảy, Hang Tám Cô…Trên hành trình dài rộng ấy là cả một miền nhớ, miền thương, miền đau… cả một trời tự hào và kiêu hãnh về con người miền Trung, về dân tộc anh hùng, về những năm tháng đau thương mà kiên cường, anh dũng của cả dân tộc ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Đế quốc Mỹ.
Hãy cùng đọc những câu thơ để đi cùng tác giả đến những vùng đất của miền Trung một thời khói lửa:
Tôi cúi mình trước địa đạo Vịnh Mốc
Mỗi đường hầm là một vầng trăng chưa kịp mọc
Tiếng ru hời như còn vọng vang giữa lòng đất sâu hun hút
Tiếng trẻ khóc chào đời khao khát mảnh trời xanh
Biển Cửa Tùng gió lộng tóc em
Kể tôi nghe về những chuyến hàng vào Nam đánh giặc
…….
Tôi dừng lại trước thành cổ Quảng Trị
Bức tường thành còn chi chít vết đạn găm
…………
Tấc đất nào không nhuộm đỏ máu cha ông?
Cỏ nơi đây mọc bằng những giấc mơ chưa kịp lớn.
Thạch Hãn ơi, dòng sông như lời ru tiễn biệt
Tuổi hai mươi gửi lại đáy sông này….
…..
Cầu Hiền Lương in bóng chia đôi
Một bên nước mắt, một bên chờ đợi
Tôi đứng lặng giữa nghĩa trang Trường Sơn
Nơi rừng xanh cúi đầu, lá cũng thôi xào xạc
Bạt ngàn mộ, bạt ngàn tên gọi
Và cả những bia mờ: “Chưa biết tên anh…”
………
Tôi lặng quỳ – không chỉ vì nỗi đau, buồn, căm hận chiến tranh
Mà còn vì nỗi biết ơn không thể gọi thành lời…
Tôi sẽ kể cho con cháu nghe về Hang Tám Cô
Nơi tiểu đội thanh niên xung phong bị bom thù vùi lấp
Bím tóc xanh em không thể còn trở lại được mái trường viết tiếp bao mơ ước
Có nỗi đau nào lớn hơn?
Tôi biết ơn – miền đất này vạm vỡ
Nắng gió hun da mà ý chí không mòn
Mảnh đất bé nhỏ mà gánh cả dáng hình dân tộc…
Chao ôi! Một con người của thế hệ sau, chỉ biết sơ sơ về chiến tranh qua những lần máy bay đánh phá, cắn trộm một vài vùng quê miền Bắc mà đến với địa danh nào cũng hiểu và xúc động tận tường với những bi tráng của nơi ấy đến thế! Tức là, người làm thơ phải nghe, phải tìm hiểu, phải nhìn lại, phải khám phá hiện thực đã qua bằng nhiều con đường để có vốn sống mà viết, có cảm xúc mà thành lời thơ.
Tôi có nhiều cảm xúc và suy nghĩ nhất khi đọc thơ Nguyễn Thị Toán viết về cha mẹ và những người thân yêu, ruột thịt! Có thể nói trong tập sách này, đó là một đề tài rõ nét. Có tới 10 trên 18 bài thơ viết về chủ đề này, bên cạnh đó còn có những liên tưởng, kết nối với những người thân yêu ở những bài thơ khác nữa. Điều này chắc cũng không có gì là lạ, bởi như một quy luật tự nhiên, ai cũng yêu thương, trân trọng cha mẹ, con cháu của mình trước- một tình cảm nhân bản rất tự nhiên. Bởi vậy, cái lẽ tự nhiên thứ hai là nhà thơ không thể không viết về những người thân yêu của mình. Nhưng viết nhiều được lại là một nét độc đáo. Hình ảnh, chân dung, cuộc đời của cha mẹ cứ trở đi trở lại trong nhiều bài thơ của Nguyễn Thị Toán. Điều đó chứng tỏ cô con gái này đã nặng lòng với bậc sinh thành ra mình biết bao! Hình ảnh mẹ xiết bao yêu thương, cảm phục, ưu tư trong cái nhìn của người con, như một sự tôn vinh đẹp nhất, ý nghĩa nhất.
Đây là những hình ảnh thân thương nhất về những người thân của tác giả trong bài “Cảm xúc tháng Ba”:
Đâu rồi bóng dáng thầy u
Vườn rau, ruộng lúa, nắng mưa tảo tần
Một đời chiếc áo nâu sồng
Cày sâu, cuốc bẫm, vun trồng sớm hôm
Nhớ bà bên bếp lửa rơm
Nồi khoai sắn luộc còn thơm đến giờ
… Chuông chùa văng vẳng tầng không
Bà đi lễ Phật sương vờn tóc mây… (Cảm xúc tháng Ba)
Thực sự, đây là những hình ảnh rất đời thường. giản dị mà cũng không kém phần nghệ thuật, là góc nhìn giàu chất thơ. Những câu thơ trong “Giấc mơ con” cũng đạt đến vẻ đẹp ấy:
Bếp lửa bà nhen ấm chiều trở gió
Mẹ hong tóc sau hè hương bưởi mãi còn vương...
Ầu ơ lời ru, vầng trăng nghiêng nghiêng
Chiu chắt yêu thương ngọt bùi khoai sắn
Mái tóc bà bồng bềnh mây trắng
Như Bụt hiền trong mỗi giấc con mơ
Cha lặng lẽ, gánh cả trời giông bão
Cho thơ con bát ngát những mùa vàng
Mẹ tảo tần đồng sâu, ruộng cạn
Nụ cười dịu dàng như nắng buổi xuân sang…
…
Mãi xa rồi, lòng con còn đau đáu
Bóng dáng bà, cha, mẹ - những ngày xưa…
Tình yêu thương và sự thấu hiểu sâu sắc của người con đã biến thành những ước nguyện:
Con ước gì có thể
mang đi tuổi tác
Để đôi chân Cha lại lên thác xuống ghềnh
Để đôi tay Mẹ lại vườn ruộng tảo tần
Sớm khuya không mỏi -
… Con muốn thấy ánh mắt cười của Cha
Tiếng cười vui của Mẹ (Viết tặng cha mẹ mùa Vu Lan)
Và còn đó những lời dặn sao mà tỉ mỉ, cụ thể, mộc mặc đến vậy! Rất đơn sơ mà chạm đến trái tim!
Con xa rồi, xin mắt đừng nhoà lệ
Đừng bỏ giữa chừng lưng cơm...
….
Cha Mẹ hãy chăm sóc nhau
Và sống vui sống khoẻ
…..
Cha Mẹ ơi!
Nhà Phật dạy phải an nhiên tĩnh tại
Xuân đến, xuân đi cũng là lẽ thường tình
….
Hãy mỉm cười và cám ơn cuộc sống
Chẳng so đo buồn tủi làm gì!
Cha Mẹ hãy luôn vui và giữ gìn sức khoẻ
Nghe Phật Pháp mỗi ngày cho lòng lắng bão giông!
… Cha Mẹ an nhiên là con cái yên lòng
Bài “Mẹ tôi” tác giả đã nhìn thấu suốt cuộc đời mẹ- một hành trình gian nan, vất vả, nhiều hy sinh mà rất đỗi tự hào, kiêu hãnh- đúng hình mẫu của người mẹ Việt Nam truyền thống đi qua chiến tranh và nghèo khó! Chúng ta cùng lược lại một số hình ảnh:
Còn nằm trong bụng mẹ
Phụ thân đã qua đời
Mười một tuổi nội mất
Mẹ tôi thành mồ côi...
…..
Mười tám tuổi theo chồng
Về Diêm Điền quê biển
Tảo tần với ruộng vườn
Nuôi 6 con khôn lớn
…..
Mẹ vào Hội Phụ nữ
Chiến công cũng góp phần
…….
Trồng khoai rồi cấy lúa
Cắt cói và se đay
Nuôi kén, tằm, quay sợi
Chưa nghỉ ngơi một ngày…
…..
Rau vườn nhà luôn xanh
Lúa đồng làng luôn tốt
Nuôi gà và nuôi lợn
Góp sức cho chiến trường
Mẹ chính là hậu phương
Vững vàng mà thầm lặng…
….Mỗi khi con mỏi mệt
Chỉ biết về mẹ thôi
Bát cháo hành mẹ nấu
Con ăn là khỏe ngay...
….
Và nỗi nhớ mẹ khi xa mới da diết làm sao, độc đáo làm sao, những câu thơ rất nghệ thuật mà cũng rất tự nhiên- đúng với con người sống lâu với Tây Nguyên, gắn bó với thiên nhiên, tư duy và cảm xúc mang đậm chất thiên nhiên:
Nhớ mẹ dài đêm mưa
Đếm làm sao hết giọt
Nhớ mẹ như ngày nắng
Bao sợi vàng ban mai…
…
Mẹ mãi là bếp lửa
Là cội nguồn, bến quê!
Viết về cha, cô con gái cũng chứng tỏ mình là người hiểu cha, thương cha thật nhiều từ lúc cha còn hiện hữu trong cuộc sống cho đến lúc cha rời cõi tạm về với tổ tiên. Thương nhất là những vần thơ viết cho cha khi cha không còn trên dương thế. Bao nỗi nhớ thương đong đầy, chữ “Hiếu” trả cho cha bây giờ là những vần thơ mà thôi- cho nên lời da diết lắm:
Đã qua rồi những ngày đông lạnh giá
Nỗi đau đừng khắc mãi ở tim sâu
Dẫu chiếc lá lìa cành trong tiếc nuối
Vẫn tin rằng lộc biếc để mai sau
Con hãy gieo và hạt mầm sẽ nảy
Dẫu đất khô, dẫu gió rát, sương cay
Hãy sống trọn những ngày xanh phía trước
Bằng yêu thương, bằng hy vọng tràn đầy
Con hãy bước về ngày mai rực rỡ
Ký ức thân thương sẽ hóa ánh sao trời
Ngọn gió lành mang lời cha nhắn nhủ:
“Buông nỗi buồn, con nhé, sống thật vui… ( Lời của cha)
Cô con gái ấy đã nhớ, đã khắc ghi và trên hết là thấm lời cha, xúc động mà thực hành lời cha dạy. Vậy là trong chặng đường tiếp theo của mình, cô gái ấy luôn có cha bên cạnh, đồng hành và dẫn dắt. Bao yêu thương và che chở của cha vẫn nguyên vẹn trong tâm hồn con gái!
Đến với “Chén trà của cha” chúng ta được cuốn vào nguồn cảm xúc ào ạt bắt đầu từ điểm khơi nguồn tại mảnh đất xứ trà Thái Nguyên. Cảnh đồi chè tiếp nối đồi chè, vị chát thanh, ngọt hậu của trà nơi đây đã khiến lòng người con gái nhớ cha da diết với những chén trà của cha buổi sớm mai - những ngày đã đi vào kỷ niệm….Ở đó ta thấy một người cha hiền hậu, với thú vui thưởng trà buổi sớm, cũng là một việc làm chăm lo cho con chén nước đầu ngày, tạo nguồn năng lượng tươi mới…
Con nâng trên tay nóng hổi chén trà
Khói mỏng quàng qua vai
như bàn tay cha ngày cũ
dắt con đi qua bao mùa mưa lũ
Những triền đồi hun hút gió heo may
Rồi trong ký ức ấy, kỷ niệm hiện về với một cặp Cha - Con như tri kỷ, tri kỷ từ chén trà sớm đến tri kỷ của thương yêu và thấu hiểu. những hình ảnh đẹp vô cùng, hình ảnh đã xa mà sao gần đến thế, nó đang hiện hữu qua màn khói trà con đang nâng trên tay hôm nay:
Cha nâng niu rót trà vào chén
“Uống đi con cho ấm bụng, đường đến lớp còn xa…”
Giọng cha trầm,
nhẫn nại như đất quê ta,
đằm như tiếng mưa vào lòng đất ải
Vị trà đậm như bước chân cha trên ruộng,
chát như giọt mồ hôi,
ngọt ngào, ấm áp
như ánh mắt dõi theo
khi con khuất sau hàng rào hoa dại…
Câu nào, chữ nào trong bài thơ cũng làm ta xúc động, chắc bởi lòng ta cũng thấm những “ thương cha nhớ mẹ” như tác giả vậy thôi! Nhất là ai đó có sự đồng cảnh: cha “khuất núi” rồi, để rồi đồng cảm với nỗi niềm của tác giả:
Cha khuất bóng rồi, con về lại quê hương
Đám mây trắng ngày xưa bỗng bay về quần tụ
Nghe tiếng ấm sôi từ lòng đất vọng
Khói vấn vương
Như cha về ngồi bên bếp nhỏ
rót cho con chén trà
Chưa bao giờ vơi nguội tình thương
Con uống chậm thôi…
Để vị chát đọng vào nỗi nhớ
Vị ngọt ở lại trên môi
Để biết mọi đắng đót đời người
Sẽ hóa dịu dàng nơi thẳm sâu ký ức…
Mỗi lần đọc được những bài thơ hay, tâm đắc, thơ về tình yêu, tình bạn, thơ về thiên nhiên, vạn vật quanh ta, tình thương yêu con người, yêu cha mẹ, con cháu… chúng ta đều thầm cảm ơn các nhà thơ! Họ đã nói hộ lòng chúng ta, họ đã từ “Tiếng nói của một người mà nói hộ lòng rất nhiều người”. Cái tính phổ quát ấy của thơ ca chính nó làm nên giá trị cho mình. Đó là cái lí do tồn tại muôn đời của thơ ca, lí do ta tìm đọc, suy tư, rung cảm, khóc cười với thơ của bao nhà thơ- có khi là bạn ta, có khi ta biết mặt, những nhiều nhất vẫn là những nhà thơ ta không hề quen biết, những nhà thơ cách chúng ta bao thế kỷ, bao dặm dài không gian, thời gian…Đó là quy luật tri âm trong cảm thụ văn học- “Cách mặt mà không cách lòng”! Chính vì thế mà tôi tin rằng, thơ của Nguyễn Thị Toán không chỉ người thân quen của em đọc, học trò em đọc… mà sẽ có nhiều bạn đọc, vốn không biết em, không tường tận nhà thơ mà vẫn hiểu, vẫn yêu, vẫn xôn xao trước những vần thơ tràn đầy tình yêu thương dung dị của tác giả. Bởi vì họ thấy tâm hồn mình trong đó!
Hạ Long, ngày trở gió, tháng 10 năm 2025
Nguyễn Thị Minh Hương