- Văn học dân gian
Đính thiên lập địa
Đính thiên lập địa (tiếng Hán 顶天立地; tiếng Hàn정천립지 - đính thiên lập địa) Ở đây, Đính (顶) là đội trên đầu, Thiên (天) là trời, Lập (立) là đứng, Địa (地) là đất. Đính thiên lập địa là hình ảnh một người đứng đầu chạm vào trời, chân đứng trên đất
Ma phủ vi châm
Ma phủ vi châm (tiếng Hàn 마부위침 tiếng Hán 磨斧爲針 - Ma phủ vi châm). Ở đây, ma - mài, phủ - cái rìu, vi - làm, châm - kim. Câu này có nghĩa đen là mài rìu thành kim (도끼를 갈아 바늘을 만든다), tiếng Việt cũng có câu rất quen thuộc là "mài sắt nên kim".
Quay đầu là bờ - Hồi đầu thị ngạn
Hồi đầu thị ngạn (tiếng Hán 回頭是岸 tiếng Hàn 회두시안 - Hồi đầu thị ngạn). Ở đây Hồi là trở lại, Đầu là đầu, Thị là là, Ngạn là bờ. Hồi đầu thị ngạn chính là "quay đầu là bờ"
Tứ cùng chi thủ
Tứ cùng chi thủ (tiếng Hàn 사궁지수 - tiếng Hán 四窮之首 - Tứ cùng chi thủ). Ở đây, Tứ - bốn, cùng - bế tắc, chi - của, thủ - đầu. Nghĩa đen của câu này là cái đứng đầu trong 4 cái bế tắc.
Hoán cốt đoạt thai
Hoán cốt đoạt thai (tiếng Hàn 환골탈태, tiếng Hán 換骨奪胎 - hoán cốt đoạt thai). Ở đây, hoán - đổi thay, cốt - xương, đoạt - cướp, thai - thai. Nghĩa đen câu này là thay xương, cướp thai.
Đông phong hay Xuân phong
Từ xưa, ở Trung Quốc, gió thổi vào mỗi mùa đều có đặc điểm riêng về phương vị, không phải là mùa đấy gió chỉ thổi từ phía đấy đến mà đa phần gió từ phía đấy đến. Vì vậy, người ta đặt tên gió vừa theo mùa, vừa theo phương vị. Cụ thể:
Rằm tháng Giêng
Hôm nay Rằm tháng Giêng. Rằm đầu tiên của năm, thế nên người ta dành cho nó nhiều trọng thị, cúng kiếng, bày biện thịnh soạn. Bởi vậy Việt Nam ta mới có câu ăn tết cả năm không bằng Rằm tháng Giêng.